LỊCH SỬ XÃ NHỰT NINH
Về Nhựt Ninh, miền hạ thân thương của một thời gian khó vì khói lửa chiến tranh, cảm nhận đầu tiên đối với vùng đất này là sự phát triển đi lên rõ đến từng ngày, để rồi trong mỗi chúng ta đều dâng lên niềm tự hào, trân trọng tấm lòng yêu nước, yêu quê hương của bao lớp cư dân ở đây.
Để tri ân các thế hệ cha anh, ghi lại những trang sử hào hùng, gắn liền với năm tháng đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, nhưng rất đổi hào hùng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhựt Ninh trong các thời kỳ đấu tranh cách mạng, nhằm phục vụ tốt cho công tác giáo dục truyền thống cách mạng tại địa phương.
Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ Tân Trụ về công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương, Đảng uỷ xã Nhựt Ninh đã tiến hành thu thập tư liệu; biên soạn tập sách “Lịch sử truyền thống cách mạng xã Nhựt Ninh (1945-1975)”. Trong quá trình tổ chức biên soạn, chúng tôi đã được các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí đã từng sống; chiến đấu tại xã Nhựt Ninh đã nhiệt tình cung cấp nhiều tư liệu và ý kiến quí báu giúp chúng tôi hoàn thành tập sách. Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh ác liệt, nhiều nhân chứng chủ chốt đã hy sinh, tư liệu phần nhiều bị thất lạc, tản mát; khả năng biên soạn cũng có hạn chế nên tập sách chưa thể phản ánh toàn diện và đầy đủ. Chúng tôi mong đón nhận những ý kiến đóng góp tiếp tục hoàn chỉnh tập sách trong lần tái bản.
ĐẤT VÀ NGƯỜI XÃ NHỰT NINH
I/ Về vùng đất Nhựt Ninh:
1/ Vị trí địa lý:
Nhựt Ninh hiện là 1 trong 11 đơn vị hành chính thuộc huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, xã nằm về phía đông huyện Tân Trụ, phía đông và nam giáp sông Vàm Cỏ Tây, phía Tây giáp kênh thôn Thành xã Đức Tân và phía bắc giáp sông Vàm Cỏ Đông và xã Tân Phước Tây.
Về hình thể, Nhựt Ninh được bao bọc bởi hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây cả 3 phía đông, nam, bắc và khu vực Miễu Ông Bần Quỳ là nơi hợp lưu của hai con sông Vàm Cỏ trước khi chảy ra cửa biển Xoài Rạp. Do đó Nhựt Ninh có một vị thế chiến lược rất quan trọng khi nằm án ngữ trên trục thuỷ lộ giao thông từ đông sang tây, khống chế được khu vực này, tức là kiểm soát được thuỷ lộ quan trọng kể trên. Mặt khác Nhựt Ninh có những voi đất cặp 2 sông Vàm Cỏ cùng với những con rạch ăn thông nhau cộng với rừng lá dừa nước, bần vẹt, dây leo cóc kèn..., thích hợp cho việc lập các khu căn cứ lõm du kích liên hoàn với các vùng khác từ Châu Thành sang Cần Đước và từ Nhựt Ninh cặp theo sông rạch qua các xã Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông, An Nhựt Tân, Quê Mỹ Thạnh, Mỹ Bình vượt quốc lộ I lên các huyện phía bắc. Với vị trí chiến lược như vậy, vùng đất Nhựt Ninh trở thành vùng tranh chấp, chiến trường ác liệt trong các thời kỳ lịch sử.
2/ Lịch sử hình thành:
Theo thư tịch cũ, vào thế kỷ XVI trong cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh, dân tộc ta bắt đầu cuộc Nam tiến vĩ đại vào khai phá đất đai ở phía Nam thuộc lưu vực của 2 con sông Vàm Cỏ và đất đai ở đây được khai thác hoàn chỉnh từ năm 1705 trở về sau, tức là năm Nguyễn Cửu Vân lập đồn điền ở Vũng Gù và đào kênh thông sông Vũng Gù với sông Mỹ Tho, như vậy có thể vùng đất Nhựt Ninh hiện nay cũng được khai phá và hình thành vào thời gian trên, nghĩa là cách nay gần 300 năm.
Thưở sơ khai, địa bàn Nhựt Ninh là vùng đất hoang du, dưới sông nhiều cá sấu, trên bờ lắm thú dữ. Vùng đất ấp Thuận Lợi hiện nay trước kia có tên là Xóm Rẫy để chỉ một vùng đất trũng thấp ngập mặn vì thế mới có câu hát ru em:
Gió đưa, gió đẩy về rẩy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
Để chiến thắng thiên nhiên, các lớp cư dân ở đây phải trải qua nhiều gian khổ, hy sinh, bằng khối óc và lao động cần cù họ đã biến vùng đất hoang du hiểm trở thành làng mạc ruộng vườn để lại cho bao đời con cháu.
Trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, vùng đất Nhựt Ninh hiện nay cũng có những biến đổi trước nhất là về hành chính.
Theo sách Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn1 (viết về các địa danh trên đất Gia Định xưa, trong đó có các địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Long An ngày nay) thì vào năm 1698, chúa Nguyễn sai thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược vùng đất phương Nam vào đây Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt phủ Gia Định và lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình.
Năm 1802, sau khi lên ngôi vua Gia Long cho đổi tên phủ Gia Định thành trấn Gia Định (bao gồm cả Nam Bộ). Năm 1808, trấn Gia Định được đổi thành Gia Định thành, huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ, 4 tổng của huyện Tân Bình được nâng lên thành huyện gồm: Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, riêng tổng Bình Thuận được đổi tên thành huyện Thuận An, huyện lỵ đóng tại chợ Cai Tài (thuộc ấp 4 xã Quê Mỹ Thạnh ngày nay). Lúc bấy giờ vùng đất Nhựt Ninh thuộc tổng Bình Cách Thượng, huyện Thuận An, phủ Tân Bình, thành Gia Định. Tổng Bình Cách Thượng có 15 đơn vị (3 xã, 12 thôn):
1.An Lý xã
2.Bình Chánh xã
3.Bình Nghị thôn
4.Bình Nhựt thôn
5.Bình Ninh thôn
6.Bình Trinh Đông thôn
7.Bình Trường Đông thôn
8.Bình Trường Tây thôn
9.Đái Nhựt thôn
10.Hoà Ái thôn
11.Nhựt Chương thôn (Nhựt Tảo)
12.Phú Mỹ Đông thôn
13.Tấn Đức thôn
14.Tân Minh xã
15.Tân Phước Tây thôn.
Như vậy từ thời vua Gia Long đã có 2 đơn vị hành chính cấp thôn là thôn Bình Ninh và thôn Đái Nhựt. Đây chính là 2 đơn vị hành chính tiền thân của làng Nhựt Ninh sau này.
Địa giới và diện tích của thôn Bình Ninh và thôn Đái Nhựt lúc đó như sau:
* Thôn Bình Ninh:
+Địa giới: Đông giáp sông lớn, Tây giáp địa phận 2 thôn Hậu Đức, Tân Trụ (thuộc tổng Thuận Đạo Thượng) đều lấy bờ ruộng làm giới. Nam giáp sông lớn, Bắc giáp địa phận thôn Đái Nhựt, lấy bờ ruộng làm giới.
+Diện tích:
Ruộng thực canh các hạng 802.8.4.0 chia ra:
-Ruộng sơn điền (ruộng gò): 565.2.4.5 (43 sở chủ)
-Ruộng thảo điền (ruộng tốt): 237.5.14.5 (35 sở chủ)
-Thổ cư: 50.8.5.5 (12 sở chủ)
-Mộ địa 3 khoảnh
-Đất hoang 9 khoảnh
*Thôn Đái Nhựt:
+Địa giới: Đông giáp sông lớn và địa phận thôn Tây Phước Tây. Tây giáp địa phận thôn Tân Trụ (Tổng Thuận Đạo Thượng). Nam giáp địa phận thôn Bình Ninh. Bắc giáp địa phận thôn Tân Phước Tây.
+Diện tích:
Ruộng thực canh các hạng 620.2.9.5 chia ra:
-Ruộng sơn điền: 124.5.13.0 (16 sở chủ)
-Ruộng thảo điền: 495.6.11.5 (71 sở chủ)
-Thổ cư: 53.6.6.0
-Mộ địa: 2 khoảnh
(Về cách đọc như sau: 620 mẫu 2 sào 9 thước 5 tấc. Đây là mẫu ta, 1 mẫu ta = 4.894 m2).
Qua số liệu trên cho thấy vào năm 1836 (năm lập địa bạ) vùng đất Nhựt Ninh (gồm 2 thôn) đã khai phá được 1.423 mẫu ta (lấy số tròn) qui ra mẫu tây gần 700ha. So với diện tích tự nhiên của xã Nhựt Ninh hiện nay là 1.413,28ha. Sau gần 300 năm khai phá diện tích tự nhiên của xã Nhựt Ninh tăng hơn gấp đôi so với năm 1836, đây là thành quả rất lớn của cư dân Nhựt Ninh trong quá trình chinh phục thiên nhiên, khai khẩn đất hoang để sản xuất nông nghiệp và định cư lâu dài.
Đến năm 1832, vua Minh Mạng đã bãi bỏ tổ chức Gia Định thành, chia Nam Bộ thành 6 tỉnh trực thuộc triều đình, lấy 2 huyện Thuận An và Phước Lộc lập ra phủ Tân An, phủ lỵ đóng tại chợ Cai Tài. Năm 1837 huyện Thuận An đổi tên thành huyện Cửu An, 4 tổng của huyện Thuận An cũ cũng được đổi tên thành tổng An Ninh Thượng, An Ninh Hạ, Cửu Cư Thượng và Cửu Cư Hạ, vùng đất Nhựt Ninh lúc bấy giờ thuộc tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An.
Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp cho dời phủ lỵ Tân An về Nhơn Thạnh Trung năm 1863. Đến năm 1867, 3 tỉnh miền Tây lọt vào tay thực dân Pháp, chính quyền thực dân đã chia Nam kỳ lục tỉnh thành 24 sở tham biện hay hạt trong đó có hạt Tân An. Đến năm 1899 hạt được chuyển thành tỉnh, viên tham biện người Pháp đứng đầu hạt trở thành “chủ tỉnh”. Khi ấy đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, thôn, phường) thống nhất được gọi là làng, trong đó có làng Đái Nhựt, Bình Ninh.
Đến năm 1920, thực dân Pháp lập quận Thủ Thừa, vùng đất Nhựt Ninh thuộc tổng Cửu Cư Hạ, quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An.
Ngày 4/2/1923, Thống đốc Nam kỳ Cognaco ký Nghị định sáp nhập 2 làng Đái Nhựt và Bình Ninh thành làng Nhựt Ninh. Tên Nhựt Ninh chính thức có từ lúc này.
Năm 1948 Pháp đặt xã Nhựt Ninh thuộc quận Bình Tịnh (trên cơ sở cắt 2 tổng An Ninh Hạ và Cửu Cư Hạ của quận Thủ Thừa lập ra quận Tân Trụ. Đến tháng 10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập tỉnh Long An trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn thì xã Nhựt Ninh thuộc tổng Cửu Cư Hạ quận Tân Trụ một trong 8 quận của tỉnh Long An mới lập.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) ngày 7/7/1977 huyện Tân Trụ sáp nhập với huyện Châu Thành thành huyện Tân Châu, đến tháng 3/1980 đổi tên thành huyện Vàm Cỏ. Đến ngày 4/4/1989 huyện Vàm Cỏ được tách ra thành 2 huyện Tân Trụ và Châu Thành.
Xã Nhựt Ninh trong giai đoạn từ sau năm 1923 có 7 ấp: Nhựt Long, Nhựt Chương, Nhựt Tân (làng Đái Nhựt cũ), Bình Thuận, Bình Lợi, Bình Hoà, Bình Thạnh (làng Bình Ninh cũ). Đến năm 1993 xã Nhựt Ninh sắp xếp lại còn 5 ấp gồm: Nhựt Hoà (nhập từ 2 ấp Nhựt Chương và Bình Hoà), Thuận Lợi (nhập từ 2 ấp Bình Thuận và Bình Lợi), Bình Thạnh, Nhựt Long, Nhựt Tân.
Hầu hết dân cư ở Nhựt Ninh sống bằng nghề nông, do đất đai bị nhiễm phèn mặn, nguồn nước sản xuất chủ yếu lệ thuộc vào trời mưa nên năng suất rất thấp, đời sống nhân dân thường gặp nhiều khó khăn.
Trong các ấp của Nhựt Ninh, từ năm 1950 trở về sau chỉ có 3 ấp Nhựt Tân, Bình Hoà, Bình Thạnh là sản xuất được 2 vụ lúa trong năm, 4 ấp còn lại phần lớn là đất cấn vai chỉ sản xuất được 1 vụ lúa mùa nhưng phải tốn nhiều công sức cho việc lên mô phơi đất diệt cỏ lát và thao chua rửa mặn.
Làng Đái Nhựt cũ với 2 ấp Nhựt Long, Nhựt Chương chịu trực tiếp cơn gió chướng đẩy nước mặn xâm nhập đất đai. Vào những tháng mùa khô, mưa đến trễ trong khi đất này cần phải có lượng mưa lớn mới có thể rửa phèn được, có lẽ chính vì vậy mà có tên là Đái Nhựt (xuất phát từ câu Đái Nhựt hạ vũ) tức là đang nắng mưa rơi xuống, một phần phản ánh nguyện vọng của dân chúng, một phần phản ánh khí hậu thất thường của vùng đất. Làng Bình Ninh cũ có 2 ấp Bình Thuận và Bình Lợi vây bọc bởi con sông Vàm Cỏ Tây, sông Vàm Cỏ Tây chảy đến đây uốn khúc thành một cái túi trước khi phóng mình về hướng thành phố Tân An đất đai ở 2 ấp này phần nhiều là đất biền, chỉ sản xuất lúa 1 vụ mà chưa chắc đã suông sẽ.
Có lẻ, trước kia các bậc tiền hiền ở đây đã nhận thấy được khí hậu khắc nghiệt của vùng đất Nhựt Ninh, nên đã đặt tên cho tên đất tên làng ở đây có những cái tên thể hiện mơ ước hơn là hiện thực rõ ràng những ấp của Nhựt Ninh không phải nằm trong điều kiện thuận lợi, tốt đẹp cho cuộc sống mà 7 ấp đều mang những chữ có ý nghĩa đều tốt cả (Chương, Long, Hòa, Thạnh, Bình, Thuận, Lợi)
Ở Nhựt Ninh lúa là cây sản xuất chính, đói no đều trong chờ vào cây lúa, ngoài ra tuy không phải là nghề chính thức nhưng đi ghe cũng mang lại thu nhập quan trọng, nhất là đối với người dân các ấp Nhựt Long, Nhựt Chương, Bình Thuận, Bình Lợi, có lẽ vì không mong vào sự ưu đãi của đất đai nên người dân ở 4 ấp trên phải kiếm sống thêm bằng nghề sông nước và nghề đi ghe đã trở thành truyền thống cha truyền con nối của nhiều gia đình ở Nhựt Ninh.
3/ Văn hóa – giáo dục ở Nhựt Ninh:
a/ Giáo dục:
Trong hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn, đời sống tinh thần của nhân dân Nhựt Ninh càng thêm bi đát, bởi chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Hơn 80% dân số Nhựt Ninh mù chữ. Trước năm 1900 học chữ nho là chính, sau đó trường Tổng Tân Trụ được thành lập nhưng rất ít người chịu đi học vì rằng chữ quốc ngữ là chữ Tây. Đến năm 1919, trường học đầu tiên được cất ở làng Bình Ninh cạnh đình làng. Trường có 2 phòng mái ngói cột gỗ, dạy 2 lớp: lớp chót và lớp tư (tức lớp 1 và lớp 2 hiện nay) mỗi lớp chừng 30 học sinh, chương trình học gồm chữ quốc ngữ xen với tiếng Pháp. Học hết lớp tư phải ra Tân Trụ hoặc lên tỉnh học tiếp, thời đó trong hoàn cảnh khó khăn nhân dân ít ai nghĩ đến chuyện cho con em mình học tiếp, do đó chỉ có một số ít gia đình khá giả mới đủ sức cho con lên Tân An hoặc Sài Gòn ăn học. Thầy giáo Liên (còn gọi là Quyến) là thầy giáo đầu tiên đến dạy ở Nhựt Ninh. Đến năm 1939 trường Đái Nhựt mới được xây dựng.
b/ Tín ngưỡng:
+ Đình:
Bộ mặt văn hóa của một làng trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 đều gắn bó với cái đình ở Nhựt Ninh cũng vậy, do đó ở hai làng Đái Nhựt và Bình Ninh mỗi làng đều có 1 cái đình để làm nơi sinh hoạt văn hóa cho dân cư trong vùng.
Đình Bình Ninh xuất hiện cùng với thời gian lập làng, tức là vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ XVIII. Ngày xưa đình như là giấy khai sinh cho một cái làng. Đình được xây dựng ở những nơi có cây cổ thụ hoặc nơi đông dân, đình là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động văn hóa của làng: cúng kiến, hát hò, xử kiện,... Trong những dịp cúng kiến chỉ cần nhìn vào chiếc chiếu ở đình là có thể biết địa vị của những người đó ở trong làng. Vinh nhục đều ở đó mà ra, vì thế có câu: “Một miếng thịt làng, bằng một sàn thịt chợ”.
Đình Bình Ninh ban đầu nằm ở rạch Đình, cách chỗ hiện tại khoảng 200m, năm 1936 Cả Phấn người làng Thanh Phú Long sang đấu giá làm đình lại bằng gỗ lợp ngói và xây đình tại vị trí bây giờ. Đình lúc này rất lớn, có cả võ ca, vỏ cua. Năm 1940 Cai Án đứng ra xây cất lại đình. Cai Án là người khởi xướng dân góp 3.500 đồng; Nhà nước cho 3.500 đồng, tổng cộng 7.000 đồng lúc ấy 100 giạ lúa giá khoảng 60đ. Đình mới vách bằng tường gạch, cột tròn có bề vòng 1 ôm tay người lớn, mái ngói, Nhà việc được xây dựng cạnh đình.
Võ ca là nơi diễn hát bội, võ ca được xây dựng trước sân đình như một sân khấu mini, có bậc thang cho người ngồi xem. Người giữ đình được làng cấp 60 sào ruộng, điều đó chứng tỏ đình được coi trọng cỡ nào.
Có chuyện kể rằng, sau khi đình được xây lại (1940) cây dương trước đình bị ngã, sau đó người ta chặt bớt nhánh đi cây dương đứng lại như cũ. Dân gian cho đó là do thần đỡ dậy nên Cai Án đề nghị làng cho hát bội 1 tháng, 31 thứ cho dân làng xem để tạ ơn thần.
Đình Đái Nhựt quy mô nhỏ hơn Đình Bình Ninh nhưng có lịch sử xây dựng tương tự.
Hai đình Bình Ninh và Đái Nhựt đều thờ thành hoàng bổn cảnh, lệ cúng diễn ra trong năm như sau:
- Hạ điền: 16/4 âm lịch
- Cầu Bông: 16/10 âm lịch
- Kỳ Yên: 15-16/12 âm lịch
+ Miễu:
Ở Nhựt Ninh những ngôi miễu nhỏ thờ Bà Ngũ hành nằm rải rác ở các ấp, về quy mô và sinh hoạt không có gì đáng nói. Duy chỉ có Miễu Ông Bần Quỳ thờ quan Xá ty Mai Công Hương mà nhân dân gọi là Miễu Ông là đáng lưu ý hơn cả.
Theo tác giả Nguyễn Bá Thế trong bài viết về Miễu xá ty Mai Công Hương đăng trên báo nguyệt san văn hóa năm 1962 có một đoạn:
“Ngay chính diện tấm hoành phi giữa đề “Anh linh”, bên hữu đề “long phi ất sửu trọng hạ tạo” và bên tả đề “phụng cung”.
Dịch câu “Phi long ất sửu trọng hạ tạo” thì ngôi miễu được dựng vào giữa mùa hạ, tức tháng 5 âm lịch năm Ất Sửu 1745, và đây là một trong số những ngôi miễu cổ nhất Nam Bộ. Về quy mô ngôi miễu thì chưa có tài liệu nào nêu được cụ thể.
Trong bài viết của Nguyễn Bá Thế đăng trên báo nguyệt san văn hóa năm 1962 có mô tả miễu Xá Hương như sau: “Miễu gồm 3 gian, cột gạch, mái ngói phong tô”. Còn theo lời kể của Ông Sáu Xã ấp Nhựt Long – Nhựt Ninh do Ông Bà xưa kể lại: “Ngôi Miếu hồi đó làm bằng gỗ căm xe, mái lợp ngói, nền lót gạch tàu. Miễu có 3 gian, gian trước là võ ca dành cho hát xướng khi cúng lễ, gian giữa thờ Ông, gian sau là nhà khói để nấu nướng. Toàn bộ diện tích khu vực ngôi miếu lúc đó khoảng 3 công đất”.
Còn theo Ông Lưu Văn Ngô ở ấp Nhựt Tân thì năm 1940 ông nội của ông là Ông Lưu Văn Cù (tức Bái Cù) thấy ngôi miễu bị hư hỏng đã cho rước thợ ở Chợ Bà Khách về làm lại và cho dời vào khoảng 30m để tránh sự xâm thực của dòng nước. Miễu cũng vẫn gồm 3 gian như cũ, mái lợp ngói, tường xây bằng gạch.
Cuối năm 1945, khi thực dân Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, tàu chúng chạy dọc sông bắn phá bừa bãi làm sập ngôi miếu. Sau đó liên tiếp bị chiến tranh ngôi miễu bị hư sập nhiều lần, mỗi lần cất sau lại nhỏ hơn lần trước, cho đến bây giờ chỉ còn lại một ngôi miếu nhỏ nhoi với hình dạng khác xa ban đầu nằm trên bờ ngã 3 sông hai dòng Vàm Cỏ. Cuối năm 2015, miễu được xây cất khang trang như hiện nay.
“Miễu Ông Bần Quỳ” là di tích lịch sử văn hóa, biểu trưng tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc ta qua hình tượng Mai Công Hương và sự kiện Mai Công Hương tuẫn tiết được lập miếu thờ gắn liền với quá trình khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long của Chúa Nguyễn thời kỳ 1698 – 1757. Ngày 18/6/1993 UBND tỉnh Long An đã ra quyết định đăng ký bảo vệ di tích Miễu Ông Bần Quỳ.
Hàng năm nhân dân xã Nhựt Ninh đều tổ chức trọng thể giỗ Mai Công Hương vào chiều 30 và sáng mồng 1 tháng 12 âm lịch.
+ Chùa, thánh thất:
Ở Nhựt Ninh một số ít người theo đạo Phật và Cao Đài, còn lại phần lớn thờ cúng tổ tiên. Xã có chùa Phật ở Nhựt Chương được xây dựng vào khoảng năm 1940, vào ngày rằm không riêng vì Phật tử, dân chúng có người đi chùa lạy Phật coi như cách tu tâm dưỡng tánh ăn hiền ở lành, còn tín đồ Cao Đài ở Nhựt Ninh thuộc 2 hệ phái: Cao Đài Tây Ninh và Cao Đài Bến Tre. Hiện nay ở ấp Thuận Lợi có Thánh Thất Cao Đài thuộc phái Bến Tre.
Về đạo thiên chúa, vào những năm đầu thế kỷ 20 ở xóm Rẫy (Nhựt Ninh) gần nhà Út Quyến có cái nhà thờ bằng lá nhưng sau không còn vì dân chúng phản ứng đến độ không thể hoạt động truyền đạo được.
+ Chợ:
Ở làng Đái Nhựt (Nhựt Ninh) khoảng đầu thế kỷ XIX tại bến đò xã Bảy có 1 cái chợ gọi là chợ xã Bảy. Vị trí chợ thuận lợi về đường thủy bởi nơi đây là cửa sông Vàm Cỏ Đông đón thuyền bè từ Gia Định xuống để đi lên Bến Lức, Tây Ninh hoặc đi sang Vàm Cỏ Tây ngược về Tân An sang Tiền Giang Mỹ Tho. Có thời chợ xã Bảy buôn bán phát đạt, tương truyền có cả thương buôn người Hoa đến buôn bán.
Năm 1861 Nguyễn Trung Trực đốt tàu Tây ở Vàm Nhựt Tảo, giặc Pháp cho tàu chạy dọc theo sông Vàm Cỏ Đông cứ thấy xóm làng tập trung ven sông là bắn phá phá tang hoang, chợ xã Bảy bị phá hủy từ đó. Sau khi chợ bị bắn phá, dân chúng mới dời nhà vào sâu bên trong đất liền cách đó khoảng 2 km lập ra 1 cái xóm gọi là Xóm Mới.
Ở Nhựt Ninh ngoài chợ xã Bảy còn có chợ Mới, chợ này nằm cạnh Cầu Dây thuộc ấp Bình Thạnh, chợ do Ông Đỗ Văn Công (chủ Công) lập nên chợ Mới còn có tên là chợ Chủ Công. Về sau chợ không phát triển được, phần vì giặc giã, phần vì ít người mua nên chợ Mới dần dần bị suy. Sau đó dân làng dỡ nhà lồng chợ về cất võ ca cho Đình Bình Ninh. Đầu năm 1946 lính Pháp đóng bót tại chợ Mới, nên sau này người ta gọi là đồn hay bót chợ Mới.
II/ Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân xã Nhựt Ninh trước khi có Đảng
Ở ấp Nhựt Long, xã Nhựt Ninh có Miễu Ông Bần Quì nơi thờ xá sai ty Mai Công Hương đã tuẩn tiết không để lọt vào tay giặc.
Năm Ất Dậu 1705 vua nước Cao Miên là Nặc Ông Yêm bị người em là Nặc Ông Thâm viên binh Xiêm La về đánh. Nặc Ông Yêm chạy sang Gia Định xin cầu cứu. Chúa Nguyễn lúc bấy giờ là Nguyễn Phúc Chu cho cai cơ Nguyễn Cửu Vân thống lĩnh quân binh thủy bộ ở Gia Định đi đánh quân của Nặc Ông Thâm ở Rạch Gầm.
Đại binh đi trước, quan xá sai ty Mai Công Hương chỉ huy quân lính vận chuyển lương thực theo đường thủy đi sau, đoàn thuyền của Mai Công Hương đi đến sông Bao Ngược (đọan sông hợp lưu của 2 sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây) thì bị quân Xiêm ngăn chặn, quân của Mai Công Hương ít. Biết không thể chống cự nổi, Ông ra lệnh đục thuyền và Ông đã tuẫn tiết không để lương thực và bản thân Ông rơi vào tay giặc
Sau dẹp loạn Cao Miên, triều đình xét công trạng phong cho Ông là “Vị quốc tử nghĩa thần” cho lập đền thờ nơi ấy gọi là Xá Hương Từ và ghi vào tự điển. Đồng thời đặt tên khúc sông nơi Ông liều mình là sông Xá Hương. Có điều đặc biệt là, những cây bần mọc dưới bờ sông trước ngôi miễu đều ở tư thế “quì” nên nhân dân gọi Xá Hương Từ là Miễu Ông Bần Quì, người dân Nhựt Ninh từ bao đời đều cho rằng trước khí tiết trung liệt của Mai Công Hương cây cối còn phải cảm kích ngưỡng mộ và ấp Nhựt Long có hàng trăm nóc gia đều mang họ Mai Bá. Tương truyền, những người này là dòng dõi binh lính của Mai Công Hương còn sống sót đã lên bờ lập làng tại đây vì mến nghĩa chủ tướng nên lấy họ Mai của Xá Hương. Những chi tiết trên cần được xác minh thêm, nhưng dù sau đây là truyền thống tốt đẹp, rất đáng trân trọng, tự hào của đất và người Nhựt Ninh và Xá Hương Từ là một trong những ngôi miếu cổ nhất Nam Bộ không chỉ có giá trị về mặt lịch sử mà nó còn là cột mốc đánh dấu vùng đất được khai phá cùng với các nơi khác gần 300 năm
Tháng 2/1859, Pháp hạ thành Gia Định, tháng 4/1861 Pháp đánh Định Tường, nhân dân Nhựt Ninh cùng nhân dân lục tỉnh chính thức bước vào cuộc chiến đấu mới.
Gần nhất và ảnh hưởng trực tiếp nhất là cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, nhân dân các làng thuộc vùng đất Tân Trụ đã hưởng ứng tích cực tham gia hàng ngũ nghĩa quân cũng như giúp đỡ lương thực, phương tiện cho nghĩa quân đốt cháy tàu Experrence trên Vàm Nhựt Tảo ngày 10/12/1861
Người thanh niên yêu nước Nguyễn Văn Tiến, quê chợ Quản Tập (chợ Tân Trụ ngày nay) đã tham gia chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân Nguyễn Trung Trực lúc 16 tuổi, ít lâu sau được phong làm chưởng cơ, điều khiển nghĩa quân ở Tân An, lưu vực sông Vàm Cỏ, Cần Đước, Cần Giuộc tức địa bàn 2 huyện Cửu An, Phước Lộc phủ Tân An thời bấy giờ. Khi Nguyễn Trung Trực chết, Ông được nghĩa quân tôn làm lãnh binh. Sau đó di binh ra vùng đất đỏ Bà Rịa. Đến khi bị bắt ở Bình Đăng và xử chém ở chợ trạm Cần Đước năm 1883.
Hiện nay mộ phần và đền thờ Nguyễn Văn Tiếp ở ấp 7, xã Mỹ Lệ , huyện Cần Đước. Hàng năm đến ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch, nhân dân xã Mỹ Lệ đều tổ chức giỗ Ông rất trọng thể.
Bước sang đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ nói chung, nhân dân Long An nói riêng lại diễn ra dưới hình thức khác, đó là hình thức Hội kín Thiên địa hội. Tổ chức hội kín ảnh hưởng sâu rộng đến các làng của vùng đất Tân Trụ mà phần lớn số họ là nông dân, động cơ tham gia hội kín của họ xuất phát từ tình cảm yêu nước, từ lòng căm thù kẻ thống trị và các thế lực áp bức khác. Tuy nhiên, tư tưởng yêu nước và tình hữu ái giai cấp ấy đã chịu ảnh hưởng rất sâu của hệ tư tưởng và đạo đức phong kiến pha màu thần bí, người mà họ tôn sùng là Phan Xích Long rồi sau là Cường Để.
Hoạt động chống Pháp thông qua tổ chức hội kín có tầm lớn nhất của nhân dân Chợ Lớn-Tân An, mà cũng là của nhân dân Nam Kỳ là vụ tấn công vào Sài Gòn-Chợ Lớn đêm 23, rạng 24/3/1913, do Phan Xích Long chỉ huy, việc thất bại Phan Xích Long và hơn 100 người tham gia khởi nghĩa bị bắt đưa ra tòa, trong số này có Ông Hương Sư Tài ở làng Đái Nhựt (xã Nhựt Ninh).
Đó là những sự kiện phần nào tỏ rõ tinh thần yêu nước của nhân dân ta có quan hệ đến vùng đất Nhựt Ninh. Truyền thống yêu nước đó, đã đưa nhân dân Nhựt Ninh đến với Đảng và đi theo ngọn cờ của Đảng trong suốt 2 chặng đường kháng chiến vẻ vang.
NHỰT NINH TRONG ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)
I/ NHỰT NINH TRONG ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
1/ Bối cảnh kinh tế-xã hội trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước cách mạng tháng 8/1945 hầu hết nhân dân Nhựt Ninh sống bằng nghề nông, một số ít kiêm thêm nghề đi ghe như đã nói ở trên, ở Nhựt Ninh vào thời đó có đất công điền, công thổ khoảng 100ha, số còn lại là tư điền tư thổ do địa chủ chiếm hữu. Nói chung hầu hết ruộng đất tốt điều lọt hết vào tay điền chủ lớn. Trong xã có 2 địa chủ lớn là nhánh dòng họ của Bùi Đức Án (cai Án) và Lê Văn Dương ( huyện Dương) có gần 1.000ha ruộng phần lớn ở Nhựt Ninh và một phần ở xã Tân Phước Tây (huyện Tân Trụ), Phước Chỉ (Cần Đước). Ngoài ra còn có một số địa chủ ở nơi khác có ruộng tọa lạc ở Nhựt Ninh
Bên cạnh đó xã còn có 30 hộ phú nông và trung nông lớp trên, họ có vốn và khả năng để thế tiền mướn ruộng của địa chủ để làm thêm. Tình trạng trung nông bao tá không nhiều, họ mướn ruộng của địa chủ hoặc đấu giá ruộng công điền rồi cho dân nghèo mướn lại để kiếm lời.
Bần nông là bộ mặt chính của nông thôn Nhựt Ninh có khoảng 600 hộ, chiếm 90% dân số. Họ là nạn nhân của đói nghèo áp bức, họ không có ruộng phải đi mướn ruộng của địa chủ nộp tô từ 30-50 giạ lúa 1 mẫu tùy theo ruộng đất tốt xấu, nghĩa là hơn phân nữa hoa lợi hàng năm. Việc thu lúa tô của địa chủ ở Nhựt Ninh thật là khắc nghiệt, nhân dân ở đây còn truyền mãi việc thu lúa tô của huyện Dương lúc đó. Tới mùa tá điền đem lúa tô tới nhà địa chủ để đóng, huyện Dương cho để sẳn một thau nước và hàng chục sa quạt, huyện Dương đổ lúa vào thau nếu còn nổi (tức là còn lộn lúa lép) thì không nhận và bắt quạt cho sạch, ai thiếu lúa tô thì phải ở đợ để trừ, có nhiều gia đình cho con ở đợ năm này qua năm khác, đứa lớn rồi đến đứa bé cũng không trả hết nợ.
Ngoài phần lúa tô, tá điền còn phải đem nộp 1 giạ nếp, 1 cặp vịt cho chủ ruộng ( mắt vịt phải nháy lanh lợi, nếu không địa chủ liệng ra sân phải kiếm cặp vịt khác và còn bị mắng chửi) gọi là lễ điền và phải làm không công cho địa chủ khi nhà các vị này có đám tiệc ( như chẻ củi, gánh nước, chùi lư, lao cột…).
Hết mùa lúa họ phải đi chèo ghe mướn cho thương lái, hoặc rời quê đi làm ăn xa,.. đời sống quanh năm cơ cực đói nghèo luôn đeo đuổi họ.
Bên cạnh đó họ còn phải đóng thế thân cho Pháp, từ 18-50 tuổi đóng 6,25 đồng mỗi năm, từ 50-60 tuổi (gọi là lão hạng) đóng phân nữa. Số tiền ấy khá lớn vì trong những năm 1930-1940 một giạ lúa trị giá từ 30-50 xu 1 giạ, cho nên nhiều người không đóng nổi, bị bắt đánh đập tàn nhẫn, họ phải trốn đi nơi khác sinh sống. Đó là tấn bi kịch chung của nhân dân Nam Bộ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, vốn dĩ có truyền thống yêu nước bất khuất và nhất là từ khi có Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời đã lãnh đạo nhân dân vùng lên chống Pháp áp bức bất công, phong trào chống thuế nổi lên mạnh mẽ, buộc Pháp phải chia làm 2 hạng thuế:
+ Hạng hữu sản ( có tài sản như: trâu, ruộng, ghe …) đóng 5,5 đồng 1 năm.
+ Hạng vô sản đóng 4,5 đồng 1 năm
Nghĩa là bằng số tiền của 15-18 giạ lúa.
Về tổ chức bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại mỗi xã có 1 tổ chức mang tên Hội Đồng Đại Kỳ Mục (Conseil de Grands Notibles) mà ta quen gọi là ban hội tề gồm 12 vị với các chức danh như sau:
+ Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Hương bộ, Hương thân, Hương hào, Xã trưởng, Chánh lục bộ.
Bộ máy này dùng uy quyền và thế lực để áp bức, bốc lột nhân dân rất khắc nghiệt. Ở Nhựt Ninh trước cách mạng tháng 8/1945 ngoài ban hội tề như các nơi khác, còn chịu sự cai trị của ông cai tổng, ông phủ, ông huyện mà ta cần ghi lại đôi nét về các vị này.
Trước hết là cánh ông phủ, ông cai. Hai dòng họ địa chủ lớn ở Nhựt Ninh và tổng cử cư hạ đều ở ấp Bình Hòa và không hẹn mà nên họ cùng ở trên một mảnh đất non 10ha.
Dòng họ Bùi Đức từ Tân Phước Tây đến Nhựt Ninh vào khoảng đầu thế kỉ XIX. Dòng họ này nổi lên từ cai tổng Bùi Đức Đường, không ai còn nhớ cai tổng Đường lúc ấy làm giàu bằng cách nào, nhưng về uy quyền và sự hách dịch của ông được người dân ở đây còn truyền tụng mãi câu chuyển cử tên Ông Cai. Cả làng cả xã không ai dám nói đến tiếng “Đường” vì sợ phạm quý ngài Cai Tổng. Khi đi mua đường thì phải nói là “mua đàng” nếu ông cai nghe ai gọi đồ vật nào đó trùng với tên mình là ông trừng trị không tha. Hiện nay mộ của Cai Tổng Bùi Đức Đường vẫn còn ở Bình Hòa Nhựt Ninh với lối xây cất khác thường. Mộ gồm một nấm đá vôi trắng có hình dáng như con ốc bưu với tấm bia hình cánh cung, lúc ấy không có xi măng nên người ta trộn mật ong với vôi để kết dính.
Cai Tổng Đường có con là Bùi Đức Hộ cũng là cai. Thời cai Hộ ruộng đất được mở rộng đến 800 mẫu. Cai Hộ có hai người con là Bùi Đức Trường mua hàm quan phủ nên được gọi là Phủ Trường và Bùi Đức Án là Cai Tổng rất có quyền thế. Nhà cai Án bên con rạch nên gọi là rạch Ông Cai. Cai Án bắt dân đắp một con đường cái ra lộ Nhựt Ninh (lúc ấy còn là lộ đất) dài khoảng 500m. Ngay góc đường đặt một cái bót có một tiểu đội lính để bảo vệ Cai Án. Cai Án bỏ chi phí để nuôi đám lính này. Dân thiếu thuế bị bắt lên đóng trăn, khảo tra.
Thời đó mỗi lần tá tiền được “mời” lên nhà ông Cai là ai nấy đều nươm nớp lo sợ, bởi chỉ có những người có tội mới được mời. Nhưng cũng có người không sợ oai ông Cai như trường hợp của bà Hai Phú.
Vì bất mãn sự khắc nghiệt của địa chủ, bà Hai Phú một tá điền nghèo cũng như bao tá điền khác ở xã Nhựt Ninh đã bảo con mình tên Nguyễn Văn Di (tức sáu Di) viết đơn gởi lên quan trên tố cáo Cai Án. Chẳng may đơn đó bị Cai Án bắt được thế là Cai Án cho gọi hết tá điền đến để “giảo tự” nghĩa là bắt mọi người đến phải viết vào giấy để đọ tuồng chữ, cuối cùng Cai Án phát hiện người viết đơn tố cáo là sáu Di, Cai Án giận run người vì tức nếu không khéo mầm mống sẽ lây lan và ngài Cai Tổng tức hơn khi thấy thái độ không mấy sợ sệt của sáu Di, Cai Án hỏi”
+ Ai xúi mày viết đơn tố cáo tao?
Biết không thể che giấu sáu Di khai thật: má tôi.
+ Mày có biết làm như thế là chết không?
Dạ biết.
+ Biết tại sao làm, mày không sợ chết à!
Sáu Di đáp: chết ai mà không sợ, nhưng phận làm con tôi đâu dám cải má tôi. Tôi xin chịu tội ông Cai xử tôi thế nào cũng được, “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhơn nguyện như thử như thử, thiên lý dị nhiên dị nhiên” (mưu sự là do con người nhưng thành công hay không là do trời, người mong muốn như vậy, nhưng lẽ trời khó đoán)
Cai Án khen sáu Di là thẳng thắn và thể hiện đứa con có hiếu, Cai Án truyền lính đánh đập 2 mẹ con, sau đó sáu Di được tha, còn bà Hai Phú sau khi bị đòn còn bị phạt làm cỏ ở sân đình.
Anh ruột Cai Án là Phủ Trường, Bùi Đức Trường sau khi nghỉ chức Cai được phong huyện rồi phủ. Hồi ấy những chức hàm chỉ có danh chứ không có thực quyền, Phủ Trường chủ yếu cho vay nặng lãi, lúc đầu Phủ Trường gần như rất dễ dãi trong lúc cho tá điền vay để đến một lúc nào đó tá điền không thể trả nổi phải bán vợ đợ con và thường là sang đoạt ruộng đất của họ. Phủ Trường có hai con đi Pháp học là Bùi Đức Thọ và Bùi Đức Chức.
Địa chủ lớn thứ hai ở Nhựt Ninh là dòng họ Huyện Dương. Tổ tiên của Huyện Dương ở Phước Chỉ (Cần Đước) đến Nhựt Ninh sau dòng họ Bùi Đức của Cai Án, Phủ Trường.
Năm 25 tuổi Ông Lê Văn Quỷnh còn gọi là Cả Quỷnh (cha của huyện Dương) mới sang khai đất ở Nhựt Ninh và cất nhà tại ấp Bình Hòa cạnh nhà Phủ Trường và cách nhà Cai Án 1 con rạch. Thời Cả Quỷnh có trên dưới 150 mẫu đất. Cả Quỷnh là người nhạy bén, chẳng hạn lúc đó vùng đất 2 ấp Bình Thuận, Bình Lợi đất xấu chỉ làm 1 vụ mùa, và ông ta đã mua đất đó với một giá thật rẻ, nhưng sau đó do canh tác thường xuyên đất dần dần được cải tạo, tuy vẫn làm 1 vụ nhưng sản lượng thu hoạch cao hơn.
Cả Quỷnh sinh được 4 người con, 2 trai là Lê Văn Dương và Lê Văn Dân. Lê Văn Dân làm thôn gọi là thôn Dân không có gì đáng nói. Lê Văn Dương tức huyện Dương là người có công đưa tài sản của họ lên đến 700 mẫu đất. Ngoài cách thu tô hà khắc như đã nói ở trên, tính cách của huyện Dương cũng thật đặc biệt, đã có nhiều giai thoại về cuộc đời ti tiện của huyện Dương, là người giàu có, mua chức huyện hàm nhưng huyện Dương dốt chữ, tuy vậy ông huyện mỗi khi ra đường thường rất hách dịch đến nỗi dân chúng từ già trẻ bé lớn đều phải cúi đầu đứng bên đường đợi cho ông huyện đi qua mới dám ngẫng đầu lên.
Trước cách mạng Tháng 8 năm 1945 xã hội Nhựt Ninh có nhiều mâu thuẫn, chủ yếu nhất vẫn là giữa địa chủ và tầng lớp nông dân nghèo, từ tình hình đó đã xảy ra sự chống đối nhưng phần lớn chỉ diễn ra ngấm ngầm, âm ỉ theo kiểu than trong tro nguội, chưa thể bừng dậy thành một cao trào nếu không có người khơi dậy hoặc sự áp bức bóc lột của địa chủ chưa đến mức “cạn tàu ráo máng”, lẻ tẻ có một vài trường hợp chống đối kiểu bà Hai Phú không đưa đến đâu.
Việc thành lập chi bộ Đảng ở các làng thuộc Tân Trụ diễn ra có muộn hơn so với Châu Thành, Cần Đước. Thời kỳ 1936-1939 những người trí thức, tầng lớp có học biết đến phong trào cộng sản qua báo chí của Đảng như tờ Dân chúng, Lao động và qua các cuộc diễn thuyết công khai hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi dân chủ của Tỉnh ủy Tân An, từ đó ảnh hưởng của Đảng bắt đầu xâm nhập vào quần chúng nhân dân trong xã nhưng cũng chưa có hoạt động gì nổi bật, chủ yếu là thiếu Đảng viên tại chỗ để trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Năm 1940 ở Nhựt Ninh không có phản ứng nào cụ thể ngoài sự kiện một lá cờ đỏ búa liềm được treo trên 1 ngọn cây cao ở Nhựt Long sáng 23/11/1940, nhưng diễn biến ở các xã lân cận đã tác động rất lớn đến tinh thần dân chúng. Nhân dân ở Thanh Phú Long đã nổi dậy bắt Ban Biện Cương, Hương Sư Phòng, đốt nhà địa chủ; nhà việc ở Thanh Phú Long, Thuận Mỹ,... đã làm xôn xao cuộc sống vốn trầm lặng ở Nhựt Ninh.
Sau sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 bọn tề làng tăng cường khủng bố đàn áp, chúng truy lùng và bắt được ông Nguyễn Văn Thức (Bảy Thức) là người treo cờ Đảng sáng 23/11/1940, thực dân Pháp bỏ tù và đày Ông biệt xứ và bắt đầu từ những bài báo của Phạm Công Niệm viết đăng trên báo Tân Sinh Hoạt ở Mỹ Tho và các báo ở Sài Gòn. Trong những bài báo ấy tác giả có viết về ách cai trị của Cai Án ở Nhựt Ninh. Tuy Cai Án không biết rõ là ai nhưng sự nghi ngờ của Ông Cai đặt vào dòng họ Phạm Công.
Trong đợt khủng bố này, Cai Án đã bắt Phạm Công Niệm, Phạm Công Kính, Phạm Công Hối, Phạm Thị Nhung và hai người anh em bên ngoại của họ là Trần Văn Của, Trần Văn Cát. Ngoài ra Cai Án còn bắt Sáu Nhiễu, Sáu Do (Nguyễn Văn Di) và Biện Sáu ở bên Thuận Mỹ. Tất cả những người bị bắt đều bị đánh đập tàn nhẫn, nhưng người bị đánh nhiều nhất là Biện Sáu và Sáu Kính. Cai Án đã giam giữ họ một thời gian, sau khi phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa lắng xuống, Cai Án thả họ ra, nhưng từ đó sự oán thù giữa hai dòng họ nảy sinh. Cùng với sự đàn áp khủng bố, bọn tề làng, địa chủ lại tuyên truyền rằng Cộng sản nổi dậy xúc lúa, bắt heo, bắt người mổ bụng dồn trấu, đốt nhà không từ bất cứ ai. Nhưng đó là sự bịa đặt không ai tin được vì xã Nhựt Ninh và Thanh Phú Long, Thuận Mỹ chỉ cách nhau có 1 con Sông Vàm Cỏ chớ xa xôi gì, địch càng đàn áp khủng bố càng bịa đặt xuyên tạc thì người dân càng hiểu thêm về Cộng Sản.
Cuối năm 1943, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập, phong trào cách mạng tỉnh Tân An bước vào giai đoạn khẩn trương xây dựng cơ sở Đảng, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cướp chính quyền. Tỉnh ủy Tân An đã chia Tân An ra làm 4 quận A, B, C, D lấy sông Vàm Cỏ Tây và con lộ 16 (Quốc lộ 1 hiện nay) làm ranh giới. Quận C gồm các làng thuộc quận Thủ Thừa từ lộ 16 về hướng Nam (tương ứng với các xã thuộc Tân Trụ).
Cuối tháng 10 năm 1944, trong phiên họp tại Bến đò Chú Tiết đồng chí Phạm Nga (Phạm Tấn Ngật) được phân công Bí thư Quận ủy quận C. Hoạt động của Đảng lúc này tập trung dưới hình thức tuyên truyền bí mật, rỉ tai từng người, kết hợp với công khai.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, bọn giáo phái Cao Đài thân Nhật bắt đầu hoành hành, bọn tề xã tiếp tục làm tay sai cho Nhật, ở Nhựt Ninh xảy ra sự kiện Tám Ngay và Quản Bông vì thù riêng đã về chợ Tân Trụ bằng xe nhà binh Nhật, sau đó về Nhựt Ninh bắt Cai Án giải về Sài Gòn để trả thù nhưng không được vì Cai Án đã được bọn Nhật cho đầu thú và được phục chức cũ làm Cai Tổng Cửu Cư Hạ như trước.
Đầu tháng 2 năm 1945, ở Tân Trụ xảy ra dịch thời khí, trận dịch này bắt đầu từ xóm Ông Đồ ở Tân Trụ. Lúc ấy ở xóm này có 1 đám tang, người chết là 1 bà cụ trên 90 tuổi. Ban đầu người ta cho rằng bà cụ mất là do bệnh già. Thế rồi những người đi đám tang về mang theo mầm bệnh mà không hay, bệnh dịch từ đó lan rộng một cách nhanh chóng nhất là ở Nhựt Ninh, người chết do dịch bệnh ngày một nhiều, chốc chốc tiếng mõ báo người chết lại vang lên lúc chỗ này, lúc chỗ khác tạo thành nỗi ám ảnh trong dân chúng, người chết chỉ được bó chiếu hoặc bao bố rồi đem chôn vội vàng, có gia đình chết không còn người nào. Dân lúc đó quá nghèo, người sống còn mặc bao bố tời huống chi người chết.
Trước tình hình trên, đội cứu cấp bệnh thời khí ở các ấp trong xã được thành lập, nổi bật trong đó là đội cứu cấp do 3 thanh niên Sáu Di, Sáu Nhiễu, Út Bổ ở 2 ấp Bình Thuận, Bình Lợi đứng ra tổ chức. Đội cứu cấp bệnh thời khí, phần lớn trong số họ là những thanh niên tâm huyết, tập họp lại để cứu giúp nhân dân trong khi chính quyền sở tại bó tay trước nạn dịch tả đang hoành hành trong xã. Qua công tác xã hội này mà tư tưởng cộng sản nhanh chóng được phổ biến.
Ngoài việc đi cứu trợ, đội cứu cấp bệnh thời khí còn tổ chức lớp bình dân học vụ, lúc ấy thầy giáo Bửng, thầy giáo Nghi từ Tân An xuống tuyên truyền việc Nhật nhổ lúa trồng đai gây ra nạn đói ở Miền Bắc, thế là đội cứu cấp bệnh thời khí có thêm 1 nhiệm vụ nữa là đi vận động quyên góp cứu trợ đồng bào Miền Bắc.
Trong 1 chuyến đi xe ngựa từ Tân An về Tân Trụ, Út Bổ, Sáu Di gặp được Ba Hoằng (Tỉnh ủy viên), như cá gặp nước 2 người được giác ngộ và từ khoảng tháng 4 năm 1945 ở Nhựt Ninh có 2 Đảng viên Cộng Sản đầu tiên là Nguyễn Văn Do và Phạm Công Hưng (Út Bổ)
Đầu tháng 6 năm 1945 Quận ủy cùng các đồng chí Lê Văn Quới, Huỳnh Văn Gấm trực tiếp vận động và xây dựng phong trào Thanh niên Tiền phong ở Tân Trụ và các thanh niên trong đội cứu cấp bệnh thời khí ở Nhựt Ninh hăng hái gia nhập đội Thanh niên Tiền phong kể từ đó.
Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong ở Nhựt Ninh lúc ấy là Lý Ngọc Thọ, Tráng Trưởng: Sáu Do, Thiếu trưởng: Út Bổ, các ủy viên gồm: Bùi Văn Giao (Tư Giao), Nguyễn Thế Sương (Hai Sương), Phạm Văn Huê,... và phụ trách dạy võ cho Thanh niên Tiền phong là 2 thầy dạy võ Mai Bá Trượng và Tuần Đệ.
Tháng 6/1945 chi bộ Đảng Cộng sản ở Nhựt Ninh cũng được thành lập với 3 đảng viên: Nguyễn Văn Do (Sáu Di), Phạm Công Hưng (Út Bổ), Nguyễn Văn Hằng (thôn Hằng) do đồng chí Nguyễn Văn Do làm Bí thư.
Thủ lĩnh Lý Ngọc Thọ người ở ấp Nhựt Tân – Nhựt Ninh, là con trai của Hội đồng Đề đã từng du học ở Pháp về. Thực sự Lý Ngọc Thọ chỉ làm một cái chức vị, mọi việc điều hành Thanh niên Tiền phong đều do Sáu Do, Út Bổ nắm. Thanh niên Tiền phong tổ chức ra hội banh, tập nghề võ, đi tuần, học ca hát, dạy bình dân học vụ,... không khí xã hội lúc ấy thật vô cùng sôi động. Cai Án lúc ấy làm ngơ không phản ứng gì, lực lượng Thanh niên Tiền phong lúc ấy khoảng 200 người, mặc đồng phục có sơ mi trắng quần sọc, mỗi người được trang bị một cây tầm vông có quấn dây luộc ở đầu ngọn, đội nón lá. Mỗi ấp có 1 hội quán làm nơi tụ họp của thanh niên.
Như đã nói ở trên, sau khi Nhật đảo chính Pháp, giáo phái Cao Đài (Tây Ninh) dựa vào Nhật. Ở Tân Trụ vào một đêm lính Cao Đài từ Tân Phước Tây kéo sang Nhựt Ninh vây nhà Cai Án và huyện Dương. Lính Cao Đài kéo vào nhà nhưng không gặp do Cai Án nhanh chân chạy trốn, bọn này kéo sang nhà Huyện Dương bắt ông này nộp 1 mâm giấy bạc 100 đồng và 2 ô vàng.
Điều này càng chứng minh cho tình hình xã hội Nhựt Ninh lúc bấy giờ đã lên đến tột đỉnh của sự rối ren. Ông Cai, Ông Huyện không còn là bất khả xâm phạm, đội Cá chỉ huy binh lính của ông Cai lúc đó đã giải tán, nhưng việc làm của lính Cao Đào lúc ấy gây ra tai tiếng không nhỏ với quân đội của Giáo phái.
2/ Cách mạng tháng tám ở Nhựt Ninh:
Khoảng 9, 10 giờ trưa ngày 21/8/1945 (rằm tháng Bảy âm lịch) ở Nhựt Ninh bỗng có tin loan truyền cả xã là: Giặc Đàng Thổ dậy sắp kéo tới Nhựt Ninh. Tiếng mõ làng trên xóm dưới cấp nập báo động gọi thanh niên tập hợp tại Đình Bình Ninh để ngăn chặn giặc Thổ. Dân chúng đang làm ngoài đồng đều bỏ ngay công việc chạy về nhà, một không khí hoảng hốt tràn ngập trong dân chúng.
Đến 3 giờ chiều có lệnh từ trên đưa xuống chuẩn bị cướp chính quyền, 5 giờ 30 chiều dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, lực lượng Thanh niên Tiền phong tập hợp tại Đình Bình Ninh và chia làm 3 cánh.
- Cánh thứ nhất theo Sáu Do lên ấp Bình Thạnh bắt Quản Hương.
- Cánh thứ hai theo Phạm Văn Huệ ra Nhựt Chương bắt Hào Triện.
- Cánh thứ ba theo Út Bổ sang Bình Hòa bắt Cai Án, Cả Phép.
Ngoài ra lực lượng cách mạng còn cử một nhóm Thanh niên Tiền phong đi phục ở Cầu Bà Tổng.
Trong 3 cánh quân, cánh đi Bình Thạnh và Bình Hòa là khó khăn hơn vì đối tượng bắt đều có súng.
Hai cánh bắt Quản Hương và Hào Triện đều tiến hành trót lọt và cùng hội với cánh thứ 3 tại ngã ba Bình Hòa (tức ngay bót lính Cai Án). Vừa lúc đó toán Thanh niên Tiền phong phục ở Cầu Bà Tổng cũng kéo tới dẫn theo Biện Mộng (Biện Mộng tên thật là Lê Văn Mộng, cháu vợ Cai Án, Biện Mộng là thư ký riêng của Cai Án). Mấy hôm trước Cai Án và Biện Mộng về báo cáo tình hình ở nhà việc Bình Lập, mang lệnh của Quận Trưởng Thủ Thừa phải triệt cho được lực lượng Thanh niên Tiền phong ở Nhựt Ninh, khi về tới Cầu Bà Tổng thì bắt (còn Cai Án ở lại Tân An và cũng bị bắt sau đó, được cách mạng khoan hồng sau về sinh sống tại Nhựt Ninh).
Dưới sự chỉ huy của đồng chí Út Bổ, lực lượng Thanh niên Tiền phong cùng với nhân dân khoảng 300 người kéo đến bao vây nhà Cai Án. Lệnh của Ban thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong là không ai được lấy bất cứ thứ gì ngoài súng đạn, máy đánh chữ, giấy tờ, nếu cãi lệnh sẽ bị xử tử. Cai Án lúc này bị bắt tại Tân An nên đoàn người kéo đến chỉ có Bà Giáo Tranh (Vợ Cai Án) ở nhà. Út Bổ ra lệnh lục soát nhưng chỉ tìm thấy một số giấy tờ, sau đó cử 1 nhóm canh chừng gia đình Cai Án, còn bao nhiêu kéo sang nhà Huyện Dương và nhà từ đường dòng họ Bùi Đức chỉ cách đó có 1 con rạch nhỏ.
Thân Thọ là con của Phủ Trường (Phủ Trường mất năm 1942) run rẩy mang vàng vòng ra nộp chỉ mong được toàn mạng, lệnh không được đụng chạm đến của cải của địa chủ được thực hiện nghiêm túc. Cả phép đem nạp súng cùng giấy tờ bị bắt theo Thanh niên Tiền phong.
Đến 9 giờ tối việc giành chính quyền ở Nhựt Ninh xem như hoàn thành, chính quyền cách mạng thu được 3 súng. Ngay đêm đó ta đưa 4 người bị bắt (Cả Phép, Biện Mộng, Quản Hương và Hào Triện) ra Trường Tiểu học Tân Trụ xét xử cùng với các xã khác. Đoàn người đi theo ngã Cầu Bà Tổng, tiếng hô vang chánh quyền về tay nhân dân vang khắp các nẻo đường dẫn ra chợ Tân Trụ, khí thế khởi nghĩa thật chưa từng có ở mảnh đất Nhựt Ninh này.
Sáng hôm sau một số trở về xã, còn một số tiếp tục lên tỉnh dự lễ Mít-ting mừng khởi nghĩa thành công.
Từ đây, lịch sử Nhựt Ninh bước sang trang mới.
II/ NHỰT NINH TIẾN HÀNH CUỘC KHÁNG CHIẾN 9 NĂM (1945-1954):
Sau cách mạng tháng 8/1945 chính quyền cách mạng được thành lập ở Nhựt Ninh được gọi là Ngũ Hương gồm:
+ Hương cả: Lý Ngọc Thọ
+ Hương hào: Phạm Công Bổ (Út Bổ)
+ Xã trưởng: Nguyễn Văn Do ( sáu Di )
+ Hương quản: Phạm Văn Huệ
+ Hương chánh: Nguyễn Văn Bền
Việc đầu tiên của chính quyền cách mạng là giảm tô, bỏ thế thân, xóa nợ của tá điền với địa chủ, song song đó, chánh quyền mới tập trung xóa cờ bạc, trộm cắp, việt gian, tuy đây là những công việc mới mẽ nhưng đã thể hiện được bản chất của chánh quyền cách mạng, chánh quyền của nhân dân.
Ngũ hương còn sử dụng cả những người của chánh quyền cũ như cả Phép, Thân Thọ (Bùi Đức Thọ) giúp việc cho chánh quyền cách mạng. Cả Phép giữ sổ bộ tài chánh của xã và mời ông Nguyễn Văn Sâm (Hai Sâm, trước đây bị bắt đi lính tập cho Pháp) huấn luyện cho lực lượng tự vệ chiến đấu của xã.
Về phía chi bộ, sau khi giành chính quyền thành công, chi bộ đã kết nạp đồng chí Phạm Văn Huệ, Nguyễn Văn Bền, Tăng Văn An, Bùi Văn Giao, Phạm Công Hối, Nguyễn Văn Thắng vào Đảng.
Khoảng nửa tháng sau khi giành được chánh quyền, đồng chí Tư Nga Bí thư quận ủy quận C và Tống Đức Diễn xuống tại Đình Bình Ninh diễn thuyết cùng với các đồng chí Quốc Hùng, Nguyễn Văn Be, Nguyễn Văn Kỳ ( Tám Ngộ) nội dung trong cuộc diễn thuyết là “ Tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng Cộng Sản Đông Dương, vạch trần tội ác của bọn phong kiến cấu kết với thực dân Pháp, quân phiệt Nhật gây bao thống khổ cho đồng bào gần thế kỷ qua. Nay chánh quyền về tay nhân dân”. Đồng chí Tống Đức Diễn đã tuyên truyền rất hay, hấp dẫn được người nghe đến đổi khi nghe ông nói xong ông Thôn Lục đứng lên giữa võ ca rút giấy thuế thân ra xé.
Tháng 10/1945, Tỉnh ủy quyết định giải thể các quận A, B, C, D và sáp nhập quận B và C thành quận Thủ Thừa, A và D thành quận Châu Thành, quận Thủ Thừa do đồng chí Phạm Nga làm Bí thư quận ủy.
Ngày 11/9/1945 được sự giúp đở của quân Anh, thực dân Pháp đỗ bộ xuống sân bay Tân Sơn Nhất thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Đêm 22/9/1945 thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở ủy ban hành chánh Nam Bộ mở màn chiến tranh xâm lược. Ngày 23/9/1945 Ủy ban khánh chiến Nam bộ ra lời kêu gọi kháng chiến.
Cuộc kháng chiến 9 năm bắt đầu, nhân dân Nam bộ tỏ rõ khí phách anh hùng trung thành với lời thề “ Độc lập hay là chết”.
Sau khi phá vỡ các phòng tuyến của ta, thực dân Pháp đưa quân tiến dánh Đồng Bằng sông Cửu Long. Tháng 10/1945 chúng đánh chiếm thị xã Tân An, đêm 18 rạng 19/11/1945 Tỉnh ủy huy động lực lượng ở các cơ sở tấn công vào Tỉnh lỵ. Cánh quân Thủ Thừa do đồng chí Bùi Văn Đức và Hồ Tấn Điều chỉ huy tiến đánh nhà thương và kho bạc. Kết quả trận đánh ta thất bại nhiều chiến sỹ hy sinh. Xã Nhựt Ninh có 2 đồng chí hi sinh, đó là đồng chí Trần Thiện Túc và đồng chí Trần Văn Kỉnh. Chi bộ và nhân dân xã Nhựt Ninh tổ chức lễ truy điệu rất trọng thể tại đình Đái Nhựt, điếu văn do đồng chí Phạm Văn Huệ đọc.
Sau khi chiếm thị xã Tân An, giặc Pháp đưa quân xuống Tân Trụ, vào trung tuần tháng 11/1945 chúng lấy công sở xã Bình Tịnh lập khu quân sự đóng 1 đồn lớn gồm 4 tiểu đội lính Tây, 1 trung đội thân binh (partisan) về mặt hành chánh chúng lập quận Bình Tịnh (phần đất quận C của ta) cử Cổ Tấn Mau làm quận trưởng2 và đưa Cả Khai làm Tổng Cử Cư Hạ, văn phòng Tổng đóng tại chợ quản tập. Lúc đó có một số phần tử cơ hội bỏ trốn lên Tân An đầu thú thực dân Pháp, một số ở lại làm tay sai cho giặc, tình hình này làm tan rã một số ngũ hương và suy yếu một số chi bộ ở các xã, riêng ở Nhựt Ninh đây là dịp chứng tỏ lòng kiên trung của đảng viên và củng cố niềm tin nơi quần chúng đối với sự lãnh đạo của chi bộ Đảng.
Trong lúc chánh quyền cách mạng đang ra sức thực hiện các chính sách nhằm thay đổi bộ mặt mới, thì ngày 25/11/1945 có tin từ Nhựt Long đưa về: Tàu Tây đến neo đậu ở ngã ba Miễu ông Bần Quỳ, trống mõ báo động vang lên khắp nơi, thanh niên trai tráng với giáo mát, tầm vông vạt nhọn hăm hở sẵn sàng chiến đấu, khi lực lượng của ta kéo đến Miễu Ông thì tàu Tây cũng vừa kéo đi. Sự việc xảy ra tuy có vẻ không thực tế vì giáo mát gậy gộc làm sao chống lại với tàu đồng súng sắt nhưng nó phản ánh rất rõ tinh thần chống giặc và khí phách của nhân dân Nhựt Ninh.
Thực hiện sự chỉ đạo của trên, ở Nhựt Ninh ủy ban nhân dân làng được thành lập thay thế cho Ban ngũ hương trước dây.
+ Nguyễn Văn Bền: Chủ tịch
+ Phạm Công Hoành: Phó chủ tịch
+ Bùi Văn Giao: Thư ký
+ Trần Văn Các: Ủy viên
+ Lê Thành Phước: ủy viên-công an
+ Phạm Công Quyên: Ủy viên
Năm 1946 thực dân Pháp bắt đầu mở rộng lấn vùng kiểm soát lấn chiếm, đóng đồn ở chợ Tân Trụ, chợ Nhựt Tảo, đình Tân Phước Tây. Tháng 4/1946 tiến chiếm Nhựt Ninh cho đóng đồn tại Chợ Mới với 1 trung đội lính partisan, trong thời điểm này một số cán bộ chủ chốt điều lên trên, số còn lại lui vào hoạt động bí mật. Chi bộ Nhựt Ninh lúc nầy gồm:
+ Phạm Công Bổ: Bí thư
+ Bùi Văn Giao - chi ủy
+ Nguyễn Văn Bền - chi ủy
+ Phạm Công Hối - chi ủy
Chi bộ đã phát triển thêm các đồng chí: Trần Văn Vui (Tư Vui), Nguyễn Thế Sương (Hai Sương), Lê Thành Phước (Tám Phước), Đỗ Ngọc Diệp, Trần Văn Của
Ủy ban nhân dân được đổi thành Ủy ban kháng chiến hành chính do đồng chí Nguyễn Văn Bền làm chủ tịch:
Trong tháng 6/1946, Mặt trận Việt Minh (sau là Mặt trận liên việt) xã Nhựt Ninh được thành lập gồm:
+ Phạm Công Hối - Chủ nhiệm
+ Nguyễn Văn Thắng - Phó chủ nhiệm
+ Tăng Văn An - Ủy viên
+ Đỗ Ngọc Diệp - Ủy viên
+ Phạm Công Niệm - Ủy viên
Tháng 10/1946 đoàn thể cứu quốc ra đời.
+ Đoàn thanh niên cứu quốc do đồng chí Nguyễn Thế Sương phụ trách
+ Phụ nữ cứu quốc do đồng chí Nguyễn Thị Nữ làm trưởng đoàn và Phạm Thị Trừu (Chín Trừu)làm phó đoàn trưởng.
Lính pháp đóng tại Nhựt Ninh khoảng 1 tuần lễ thì rút đi, thế vào đó là lính Cao Đài do Phạm Công Trình chỉ huy đóng đồn ở chợ Mới.
Lính Cao Đài thường đưa quân đi lùng cán bộ Việt Minh dưới sự chỉ huy của Phạm Công Trình, chú ruột của Trình tức cha của Phạm Công Bổ tên là Phạm Công Văn bị lính Cao Đài của Tân Phước Tây bắt và đánh đập đến mang bệnh mà chết. Phạm Công Trình đi đám tang chú ruột nhưng chủ yếu là dò xét và ra lệnh bắt cho được anh em Phạm Công Niệm và Phạm Công Bổ vì hắn nhận định anh em Phạm Công Bổ về viếng cha mình, biết được ý đồ của Phạm Công Trình, 2 đồng chí Niệm, Bổ không để lọt vào âm mưu của giặc và 15 ngày sau đám tang 2 đồng chí đã về viếng cha một cách bí mật.
Mặc dù tạm ước 14/9 được ký kết nhưng thực dân Pháp vẫn không ngừng khiêu khích khắp nơi, cho đến ngày 19/12/1946 theo lời kêu gọi “ Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã thể hiện tinh thần chiến đấu anh dũng.
Sang năm 1947 các tổ chức cách mạng của xã Nhựt Ninh không ngừng lớn mạnh, chi bộ lúc này do đồng chí Nguyễn Văn Thắng làm Bí thư thay đồng chí Phạm Công Hưng (Út Bổ) được rút về trên. Chi ủy có 4 đồng chí gồm: Tăng Văn An, Đỗ Ngọc Diệp, Phạm Công Niệm và Trần Văn Của. Nhưng nhận nhiệm vụ được vài tháng đồng chí Nguyễn Văn Thắng bị địch phục kích bắn hy sinh. Đồng chí Đỗ Ngọc Diệp (Đỗ Nam Quang) được phân công thay thế.
Bộ máy ủy ban hành chánh kháng chiến gồm3:
+ Chủ tịch: đồng chí Trần Văn Của (sau huyện rút, đồng chí Trần Văn Các thay thế)
+ Phó chủ tịch: đồng chí Võ Văn Xã (Tư Xã)
+ Ban quân sự:- Đồng chí Trần Văn huyện (Ba Me)
- Đồng chí Trần Văn Trụ – Ủy viên
+ Ban công an: đồng chí Trần Văn Phải (Tư Phải)
+ Ban thông tin: đồng chí Nguyễn Trung Cang (Út Cang)
+ Ban tài chánh: đồng chí Năm Phải (Năm Phải)
+ Ban xã hội: đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (Mười Hiếu)
+ Y tế: đồng chí Ba Hợi
Về đoàn thể được bố trí như sau
+ Phụ nữ cứu quốc: Lữ Thị Huấn
+ Thanh niên cứu quốc: Nguyễn Văn Tiển (Tư Tiển)
+ Nông dân cứu quốc: Mai Bá Vệ, Mai Bá Liểng, Lê Văn Thể (Năm Mì)
Các tổ chức chánh quyền cách mạng đóng văn phòng tại ấp Bình Thuận, Bình Lợi hội họp tại nhà đồng chí Tư Trưởng, Tư Đại. Ngoài ra còn có các cơ quan hành chánh của các xã bạn đóng ở ấp Bình Lợi, Bình Thuận (Nhựt Ninh) như xã Mỹ Lệ, Long Cang, Long Sơn, Long Trạch, Phước Tuy, phước Hậu (của huyện Cần Đước) và nhà đồng chí Tư Trưởng có công binh xưởng của huyện về đóng chế tạo vũ khí tại đây.
Từ năm 1947 đơn vị hành chánh cơ sở của ta thống nhất trên toàn quốc quận gọi là huyện, làng gọi là xã.
Giữa năm 1947 đồn Chợ Mới do xếp Bàu chỉ huy thay thế cho Phạm Công Trình, địch thường tổ chức lùng sục gây không ít khó khăn cho phong trào cách mạng tại địa phương. Tháng 8/1948, 2 tiểu đội lính Cao Đài do tên Xếp Bàu chỉ huy tiến xuống 2 ấp Bình Thuận, Bình Lợi lùn bắt cán bộ cách mạng, lúc này lực lượng vũ trang của ta có 1 trung đội thuộc đại đội 1072 huyện do Ông Nguyễn Văn Sâm chỉ huy phục kích sẵn, ta nổ súng diệt 2 tên, làm bị thương 1 tên, xếp Bàu bị diệt trong trận này và tên đội Thẳng được cử thay thế xếp Bàu chỉ huy đồn Chợ Mới, sau cái chết của xếp Bàu tuy có tác động đến tinh thần binh lính nhưng dưới lệnh của quan thầy, chúng càng tỏ ra hung hãn. Chúng thường cho lính giả đi bán thịt heo, súng bỏ trong gánh để lùng sục cán bộ, ngày 14/3/1948 lính đội Nhơn bắn chết đồng chí Ba Thà du kích xã và bắn bị thương đồng chí Tư Xã Phó chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chánh xã Nhựt Ninh tại xóm Chùa Nhựt Chương, ngày 15/5/1948 bắn chết đồng chí Tám Khương xã đội trưởng xã Nhựt Ninh.
Ngày 18/9/1948 thực dân Pháp huy động bộ binh và tàu chiến từ Tân An, Chợ Lớn, Mỹ Tho tấn công vào Nhựt Ninh. Bộ binh có xe bọc thép yểm trợ tràn vào mặt Bắc, tàu chiến giặc từ sông Vàm Cỏ Tây bao vây ba phía còn lại của xã, lực lượng vũ trang xã lúc này đóng tại ấp Bình Lợi. Trong đám lá lớn (thuộc ấp Bình Thuận) chỉ có cán bộ địa phương cùng với cán bộ các huyện lân cận sang như Châu Thành, Cần Đước. Đặc biệt là lực lượng cán bộ các xã ven sông Vàm Cỏ thuộc huyện Cần Đước như: Long Sơn, Long Cang, Phước Vân, … có mặt rất đông. Do không thông thạo địa hình nên địch chẳng làm gì được, chúng tức tối cho một bộ phận rút đi còn một số ở lại phục kích, đến xế chiều, cán bộ ta trở ra bị chúng bắn chết tổng cộng 41 người đa số là người Cần Đước, Cần Giuộc ở địa phương hi sinh 5 người gồm Tư Huê, Ba Huynh, Bảy Nhị, Bảy Nhạc (4 người này là dân thường) và đồng chí Phạm Văn Cấn (Sáu Cấn cán bộ đoàn thanh niên cứu quốc xã)
Do không vào được nơi trung tâm đám lá lớn, bọn sĩ quan Pháp chán nản với địa hình phức tạp ở đây nên đã gọi đám lá lớn ở Nhựt Ninh là ĐÁM LÁ TỐI TRỜI và Đám Lá Tối Trời – Nhựt Ninh có tên từ trận càn đó.
Sau năm 1948 rút kinh nghiệm trong cuộc chạm trán vừa qua với địch, cán bộ và nhân dân Tân Trụ đã nghiêng cứu xây dựng lại căn cứ, lợi dụng địa hình sình lầy, sông rạch chằn chịt ta đã xây dựng Đám Lá Tối Trời – Nhựt Ninh thành khu căn cứ du kích trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong giai đoạn này phong trào hủ gạo nuôi quân ở xã Nhựt Ninh được nhiều người ủng hộ, nhân dân tích cực lao động đóng góp gây quỹ cho tiền tuyến, mạnh nhất là xây dựng lực lượng tự vệ, dân quân du kích, mỗi ấp điều có một đội du kích vừa sản xuất vừa luân phiên canh gác báo động, khi giặc ra khỏi đồn đi đến đâu điều có tin báo nhanh chóng của nhân dân, giúp du kích chủ động đánh giặc.
Năm 1949 ở xã đã thi hành chính sách của Đảng tạm cấp đất cho nhân dân và giảm tô 25%. Ta tịch thu ruộng của bọn Việt gian và quản thủ ruộng của địa chủ vắng mặt, ruộng tịch thu và công điền ta tạm cấp cho gia đình bộ đội, còn ruộng địa chủ vắng mặt ta tạm cấp cho dân nghèo. Việc cấp đất này chi bộ và chính quyền xã lấy ý kiến dân chủ của nhân dân để giải quyết cho công bằng và hợp lý. Đồng chí bí thư chi bộ Đỗ Ngọc Diệp, đồng chí Trần Văn Các chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến trực tiếp lãnh đạo phong trào kịp thời giải quyết những vướng mắt và sai sót, số tô tạm thu nộp ngân sách.
Ở Nhựt Ninh bọn địa chủ nhượng bộ giao đất cho nhân dân và chấp nhận mức tô 25%, nhờ có sự lãnh đạo tốt thực hiện chính sách triệt để, hợp lòng dân nên công tác tạm cấp ruộng đất cho nông dân ở Nhựt Ninh được thực hiện thành công tốt đẹp được tỉnh đánh giá là tốt nhất ở huyện Thủ Thừa và nhờ chính sách này và Đảng đã huy động được khối đoàn kết nhất trí, sức mạnh toàn dân vào cuộc kháng chiến.
Lần đầu tiên trong lịch sử, ruộng đất về tay dân cày nghèo, người nông dân được làm chủ đất đai do cách mạng mang lại, điều đó góp phần làm tăng sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm.
Tháng 11/1949 địch mở thêm đồn bót bất kể nơi thờ tự của tôn giáo, chúng chiếm chùa thầy Tích ở Nhựt Chương để lập bót mở rộng vùng kiểm soát. Như vậy ở Nhựt Ninh lúc này có 3 đồn là đồn Đái Nhựt, đồn Chợ Mới và đồn Nhựt Chương.
Ngày 22/5/1950 đồng chí Đỗ Ngọc Diệp bị địch phục kích bắt được tại Xóm Đình, sau đó chúng bắn chết đồng chí tại ấp Bình Hòa, đồng chí Trần Văn Út được cử làm Bí thư xã. Tháng 12/1950 đồng chí Trần Văn Út bị bọn lính đạo phục kích bắn chết. Tháng 1/1951 đồng chí Nguyễn Trung Cang (Út Cang) được cử làm Bí thư xã
Đầu năm 1950 địch đóng thêm đồn Đái Nhựt ở ấp xóm Mới do tên đội Nhơn chỉ huy.
Trong giai đoạn từ năm 1950 ở Nhựt Ninh địch bắt đầu thực hiện chiến thuật DeLatour tức là lập thêm đồn bót và tháp canh để bảo vệ các trục giao thông và vùng kiểm soát nhằm cố giữ đồng bằng để tập trung tài lực phục vụ chiến tranh. Tại xã Nhựt ninh ngoài 3 đồn Đái Nhựt – Chợ Mới – Nhựt Chương do lính Cao Đài trấn giữ chúng còn lập thêm các tua ở ấp Bình Thuận, Bình Lợi, Vàm Rạch Cá (Nhựt Long), mỗi tua có 5 lính. Bên cạnh xây dựng đồn bót dày đặc, địch còn ra sức phát hoang (còn gọi là mần sâu) đốn sạch cây cối quanh nhà, ven sông làm trắng hoàn toàn địa hình để dể dàng kiểm soát sự đi lại của nhân dân và hoạt động của cán bộ ta. Với việc làm ấy gây nhiều khó khăn cho hoạt động cách mạng tại địa phương, để đối phó lại các cuộc hành quân, ruồng bố trong lúc địa hình trống trải, cán bộ ta phải chuyển sang hoạt động bí mật, phần lớn ở hầm bí mật đặt trong nhà dân, trong nhà vách đôi, trên chái nhà hoặc trong cây rơm, dưới góc tre,…… ngoài ra kể từ sau trận càng năm 1948 lực lượng cách mạng đã xây dựng “ Đám Lá Tối Trời – Nhựt Ninh” thành khu căn cứ du kích khá vững chắc, với lợi thế dây leo, lá dừa nước dày đặc ăn thông nhau bởi nhiều con rạch nhỏ thành hệ thống liên hoàn, những đường vào căn cứ được gày chông mìn rất nguy hiểm, bọn địch rất sợ nên không dám tổ chức càn vào khu Đám Lá Tối Trời và ta cũng tránh những hoạt động vũ trang tại đây để bảo vệ bí mật cho căn cứ. Ngoài cán bộ các đơn vị vũ trang huyện Tân Trụ, lực lượng Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành cũng về đóng ở đây. Tháng 7/1951 huyện Vàm Cỏ được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 huyện Tân Trụ và Châu Thành theo quyết định của Tỉnh.
Trong thời gian này ở xã xảy ra sự kiện: tên Tám Dình trước tham gia cách mạng, sau làm phản và gây nhiều tội ác với cách mạng và nhân dân. Y đã ỷ thế ép phụ nữ có chồng phải lấy hắn. Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân phản đối và tổ chức cho ông sư Hèn mang đơn đi kiện tên Dình, kết quả tên Dình bị kết án tù tại tòa án Mỹ Tho. Qua sự kiện này uy thế làng lính xuống thấy rõ, bà con nhân dân trong xã vô cùng phấn khởi càng tích cực đấu tranh với địch.
Tháng 4/1952 đồng chí Út Cang bị địch bắt, đồng chí Lê Thành Phước (Mười Sự) được điều về làm Bí Thư chi bộ xã Nhựt Ninh. Trong điều kiện hoạt động còn nhiều khó khăn, được nhân dân hết lòng chở che, giúp đỡ phong trào cách mạng trong xã luôn được giữ vững.
Tình hình cuối năm 1953 đầu năm 1954 có nhiều diễn biến tích cực, thắng lợi quân sự trong tỉnh giòn giã như: Trận Kinh Bùi, Trận Miễu Bà Cố ở Phú Ngãi Trị, trận đánh đoàn “Convoie” tàu địch trên kinh chợ Gạo và trận đánh bọn lính commandos tại Chợ ông Bái ở xã An Lục Long…. Làm cho địch hoang mang co cụm lại. Nhân dân ta rất phấn khởi, lực lượng vũ trang huyện, xã phát triển nhanh, nhiều lõm du kích được mở rộng, nối liền thành thế liên hoàn bao vây địch, đến tháng 5/1954 các đồn, tua của địch ở Nhựt Ninh đều rút chạy, xã Nhựt Ninh được giải phóng.
Trong không khí chiến thắng rộn rã khắp nơi, giữa tháng 7/1954 Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Vàm Cỏ họp tại trường học chợ Mới xã Nhựt Ninh để bầu ra BCH Đảng bộ huyện, sau đó cuộc họp huyện ủy đầu tiên tại nhà ông Ba Côn để phân công ủy viên. Đồng chí Thành Trung (Mười Nghiêm) được bầu làm Bí Thư Huyện ủy, đồng chí Bùi Văn Giao ủy viên Thường vụ - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Vàm Cỏ.
Ngày 20/7/1954 hiệp định đình chiến được ký kết tại Genève. Nhân dân, cán bộ ta rất vui mừng, qua 9 năm đấu tranh gian khổ hy sinh, âm mưu thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2 bị đánh bại hoàn toàn. Việc qui định tạm thời vùng tập kết chuyển quân hai bên để hai năm sau tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền là thời gian quí báo cho Đảng ta bố trí lại lực lượng, xây dựng hậu phương chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài với kẻ thù là đế quốc Mỹ đang can thiệp sâu vào Miền Nam Việt Nam.
Sau ngày 21/7/1954 toàn thể các đồng chí trong Huyện ủy, các đồng chí Bí Thư, Phó Bí Thư chi bộ đã được triệu tập về tỉnh học tập hiệp định Genève. Sau khi nắm chắc tình hình nhiệm vụ mới, tiếp theo là việc lựa chọn và quyết định ai đi tập kết, ai ở lại. Học xong cán bộ được ở lại từ từ về xã triển khai cho Đảng viên cơ sở. Ở Nhựt Ninh các bộ đi tập kết gồm có Bảy Oanh, Năm Ngộ, Bùi Văn Giao (Tư Giao), Phạm Công Hối (Mười Hối), Tám Chức, Lâm Văn Hối (Hai Hối), Nguyễn Văn Sâm (Hai Sâm), Trần Văn Chức (Ba Chức), Mai Bá Xây (Bảy Xây), Trần Văn Cứ (Tám Cứ), sáu Trọng, Đoàn Văn Gạch (Tư Gạch), Chín Phẩm, Tư Tôn, Út Quan, Nguyễn Văn Lúa (Năm Lúa), Tư Mè, Phan Văn Chí, Mai Bá Liểng, Trần Văn Bổn (Ba Bổn), Đinh Văn Xuyên, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Tâm (Út Tâm), Hai Quan, Nguyễn Văn Luận, Trần Công Mậu.
Người ta còn nhớ câu động viên nhau trước lúc chia tay lên đường làm nhiệm vụ trong giai đoạn đó:
“ Tiễn nhau một chén quan hà
Đi là thắng lợi, ở là vinh quang”
CHƯƠNG BA
NHỰT NINH TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)
I/ Đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Genève (1954-1960):
Theo Hiệp định Genève vừa được ký kết, nước Việt Nam tạm thời chia làm 2 miền: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự quản lý của kẻ thù. Vĩ tuyến 17 từ sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời chờ 2 năm sau (7/1956) thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Thực hiện Hiệp định đã ký kết, Đảng ta đã đề ra chủ trương chiến lược đối với Cách mạng miền Nam là: Tập kết các đơn vị quân đội và cán bộ dân chính Đảng ra miền Bắc để học tập và xây dựng hậu phương XHCN; đồng thời để lại miền Nam một lực lượng cán bộ làm nòng cốt lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị đòi địch thi hành Hiệp định, tiến tới hiệp thương tổng tuyển cử.
Do sẵn có dã tâm từ lâu, lợi dụng cơ hội Pháp bại trận, đế quốc Mỹ nhảy vào xâm chiếm miền Nam Việt Nam, chúng đã xây dựng Chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm, xem như là một công cụ để triển khai hàng loạt thủ đoạn và biện pháp hết sức thâm hiểm, Hiệp định Genève ký chưa ráo mực, Mỹ – Diệm đã phá hoại một cách có hệ thống, vi phạm ngày càng trắng trợn các điều khoản đã được pháp lý quốc tế thừa nhận. Chúng khước từ mọi đề nghị của Chính phủ nước ta về việc hiệp thương và tổng tuyển cử; từ chối việc lập lại quan hệ bình thường giữa 2 miền. Từ cuối năm 1955, chúng lại cắt đứt sự tự do đi lại qua giới tuyến quân sự tạm thời. Bất chấp nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam, Mỹ – Diệm cự tuyệt mọi đề nghị của Chính phủ nước ta về việc trao đổi thư tín giữa 2 miền Nam-Bắc, Nghiêm trọng hơn, theo lệnh Mỹ, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử riêng lẽ, bầu “Quốc hội lập hiến” (4/3/1956), ban bố Hiến Pháp (26/10/1956) nhằm biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, chia cắt lâu dài nước Việt Nam, nhằm mục tiêu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và trở thành tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á.
Tình hình miền Nam sau ngày ký kết Hiệp định Genève ngày càng diễn biến phức tạp. Khi các lực lượng của ta vừa rút về các vị trí tập kết thì đồng thời các lực lượng tay sai của đế quốc kéo đến, các tiểu đoàn bảo an chiếm giữ các thị trấn, thị xã và các trục giao thông quan trọng. Bọn thám báo, dân vệ bung ra hoạt động, đóng đồn bót và hỗ trợ cho địa chủ trở lại nông thôn để xây dựng bộ máy tề xã, ấp.
Trên địa bàn Tân Trụ, địch đưa trung uý Trương Hoà Minh về làm quận trưởng, Bùi Đức Chư làm phụ tá. Ở Nhựt Ninh chúng lập một ban hội tề gọi là Hội đồng hương chính do Phan Hoà Cảnh (Bảy Ruộng) làm chủ tịch, Nguyễn Trung Thu làm xã trưởng, Nguyễn Văn Trung phó xã trưởng an ninh, Mai Bá Tước làm uỷ viên cảnh sát. Địch đã xây dựng đồn Đái Nhựt và các tua Nhựt Long, Bình Thuận, Chợ Mới và đưa bọn tổng đoàn dân vệ trấn giữ.
Cuối tháng 10/1954, Tỉnh uỷ Tân An tổ chức hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, Nghị quyết xử uỷ Nam Bộ trong tình hình mới, Tỉnh uỷ đã có chủ trương sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và địa giới hành chính các huyện theo sự phân chia của địch để lãnh đạo đấu tranh sâu sát và hiệu quả hơn. Theo đó Tỉnh uỷ quyết định giải thể huyện Vàm Cỏ và lập thành huyện Tân Trụ, Châu Thành. Tỉnh uỷ phân công đồng chí Hồ Văn Mai làm Bí thư Huyện uỷ Tân Trụ, đồng chí Trang Long Nhung làm Phó bí thư.
Tiếp thu tinh thần các Nghị quyết của cấp trên, huyện Tân Trụ tập trung triển khai thực hiện tận cơ sở. Theo đó, về cán bộ cơ sở thì chọn các đồng chí trung kiên đã qua thử thách đấu tranh và chưa bị lộ lập chi bộ mới. Các đồng chí đã bị lộ thì hoạt động đơn tuyến, còn các đồng chí đã lộ rõ thì chuyển vùng hoạt động, phải lấy việc bảo toàn lực lượng của Đảng làm nhiệm vụ trọng tâm, vì Đảng còn và vững mạnh thì khó khăn nào cũng vượt qua.
Về nhiệm vụ có 4 nội dung chính:
- Đẩy mạnh đấu tranh chính trị đòi dân sinh dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ lực lượng cách mạng, bảo vệ quần chúng mà cơ sở pháp lý là Hiệp định Genève (Điều 14 khoản c).
- Chuyển tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật, đảng viên phải có vỏ bọc hợp pháp để hoạt động, bắt rễ vào quần chúng để xây dựng nòng cốt lãnh đạo các phong trào đấu tranh.
- Công tác dân vận là quan trọng hàng đầu của quá trình đấu tranh chính trị để dẫn dắt quần chúng đấu tranh bằng nhiều hình thức linh hoạt phù hợp với tình hình qua các tổ chức biến tướng.
- Công tác binh vận phải được đẩy mạnh để phục vụ cho đấu tranh chính trị và bảo vệ thành quả cách mạng.
Từ năm 1955, với nhiều thủ đoạn nhằm dập tắt phong trào cách mạng tại xã Nhựt Ninh mà tập trung vào cán bộ hồi cư (cán bộ từng tham gia kháng chiến). Chúng tiến hành khủng bố, bắt bớ, bắn giết những người kháng chiến, buộc họ phải ra trình báo, khai báo, buộc họ mỗi tối đến ngủ tập trung tại đình Đái Nhựt và Bình Ninh để tiện theo dõi, kiểm soát. Chúng đưa về xã các đoàn “công dân công vụ” thực chất là mật vụ, kết hợp với bọn tâm lý chiến để tuyên truyền chống phá cách mạng, chống lại nhân dân, chúng buộc mỗi nhà phải treo ảnh Ngô Đình Diệm, vẽ cờ “3 sọc” cùng các khẩu hiệu chống cộng, khẩu hiệu tung hô Ngô Đình Diệm ở nhà dân hoặc nơi công cộng. Chúng bắt buộc những gia đình có người thân tham gia kháng chiến phải tuyên bố “ly khai” với người thân đi tập kết, ly khai với Việt cộng; bắt buộc nhân dân đi học tập tố cộng và tập hợp gia đình có thân nhân là lính chết trận, những người có tài sản bị chiến tranh tàn phá để dựng lên cái gọi là “nạn nhân Cộng sản”, để rồi động viên số này đứng lên tố cộng nhằm gây hận thù, chia rẽ nội bộ nhân dân.
Chúng chia nhân dân trong xã ra làm 3 loại: loại A “ công dân bất hợp pháp” bao gồm những người yêu nước, yêu hoà bình, số đông là những người kháng chiến cũ. Danh sách những người này chúng cho vào sổ bìa đen, loại B “công dân bán hợp pháp” bao gồm những người thân thiết có cảm tình với loại A, loại C là “công dân hợp pháp” phần đông là những gia đình có người tham gia nguỵ quân, nguỵ quyền, những người có quyền lợi gắn bó với nguỵ quyền. Đối với loại A, loại B địch thường xuyên theo dõi, khủng bố, bắt giam, bắt đi học cải huấn.
Trên địa bàn xã, ngoài bọn tề xã, mỗi ấp có một chủ ấp và mạng lưới liên gia, cứ 5 nhà vào một liên gia có liên gia trưởng quản lý, địch bố trí những tên chỉ điểm nằm rải rác trong dân để kiểm soát các gia đình tham gia cách mạng, gây nghi kỵ, chia rẽ... Ở mỗi ấp địch xây dựng 1 trạm thông tin, chòi canh, bắt thanh niên từ 18 đến 45 vào tổ chức “thanh niên bảo vệ hương thôn” luân phiên canh gác theo dõi người lạ mặt. Chúng bắt buộc mỗi gia đình phải có một sợi dây thừng, tù và, mõ hoặc thùng thiếc để phòng chống trộm cướp và quy định khi phát hiện kẻ gian vào ban đêm là nổi thùng thiếc, đánh mỏ hoặc thổi tù và báo động, đây thực chất là để báo động ngăn chặn cán bộ cách mạng len lỏi hoạt động. Song song đó chúng tăng cường bắt lính, bắt dân đi làm sâu ở khu trù mật Đức Huệ.
Kế tiếp địch phát động cái gọi là “phong trào cách mạng quốc gia” để lôi kéo, đoàn ngũ hoá nhân dân bằng tổ chức thanh niên; thanh nữ cộng hoà, phụ nữ liên đới. Chúng còn lừa mị dân bằng chủ thuyết “Cần lao nhân vị” vô cùng phản động.
Từ năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã lộ rõ bộ mặt phát xít công khai đánh thẳng vào lực lượng cách mạng và nhân dân bằng tất cả các thủ đoạn chính trị, quân sự, kinh tế và luật pháp phản động. Liên tiếp trong tháng 1 và tháng 2 năm 1955, Ngô Đình Diệm đã ban hành chỉ dụ số 2 và chỉ dụ số 7 về cải cách điền địa. Theo đó tất cả nông dân miền Nam bị buộc phải lập khế ước tá điền trên các phần đất mình đang canh tác, như vậy quyền sở hữu về ruộng đất của nông dân đến đây hoàn toàn bị xoá bỏ, nông dân trở thành tá điền. Vậy mà chính quyền Diệm không ngớt tuyên truyền lừa gạt nông dân rằng với chính sách cải cách điền địa chính quyền Diệm đã “bảo vệ quyền lợi tá điền”, “hữu sản hoá nông dân”, “đem lại cho đồng quê một đời sống mới”, tất cả đều tốt đẹp. Nhưng thực tế thì nông dân bị đuổi khỏi ruộng đất canh tác mà cách mạng đã cấp cho họ, bị trói buộc số phận vào ruộng đất của địa chủ trên cơ sở chế độ chiếm hữu ruộng đất và lối bóc lột phong kiến đã được Diệm phục hồi và mục tiêu chính của cải cách điền địa của Diệm vẫn là đánh vào cách mạng, đánh vào nông dân cũng tức là đánh vào chỗ dựa sống còn của Đảng, của cách mạng.
Tháng 3/1955, Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “tố cộng”, thế là một làn sóng bắt bớ, khủng bố tàn bạo đã diễn ra. Đây là thời kỳ vô cùng khó khăn đầy thử thách của phong trào cách mạng miền Nam nói chung và của Nhựt Ninh nói riêng.
Tháng 6/1955, địch trắng trợn bắt giam đồng chí Nguyễn Văn Song (Tư Song), sau đó bắt giam đồng chí Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Ngộ, Lê Văn Chắc cùng nhiều người dân khác, chúng đã dùng cực hình tra tấn một cách dã man có đồng chí phải hy sinh trong tù như đồng chí Huỳnh Văn Cát (Nhựt Tân) nhưng tất cả thà chấp nhận hy sinh, không khuất phục.
Đối với phong trào cách mạng xã Nhựt Ninh từ tháng 6/1952 do đồng chí Lê Thành Phước (Mười Sự) làm bí thư chi bộ. Thực hiện chỉ đạo của Huyện uỷ, chi bộ xã được tổ chức thành 2 chi bộ: chi bộ A (chi bộ gồm các dồng chí đảng viên bị lộ) do đồng chí Lê Thành Phước làm bí thư và các đồng chí Nguyễn Văn Song (Tư Song), Đỗ Văn Đảnh (Ba Đảnh), Trương Văn Mầu (Chín Mầu), Mai Bá Vững (Chín Vững)...Chi bộ B ( gồm các đồng chí chưa bị lộ, hoạt động hợp pháp) do đồng chí Trần Thị Sen (Tư Sen) làm bí thư và các đồng chí Lê Thị Thao, Võ Thị Đang (Tám Đang), Trần Thị Lựu (Ba Lựu, Võ Văn Vọng (Năm Nghè), Phạm Thị Siêng...
Trước sự đàn áp, khủng bố ngày một nặng nề của giặc, chi bộ đã kiên trì lãnh đạo nhân dân trong xã tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị nhằm chống lại các âm mưu của giặc, cuộc đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đấu tranh chống tố cộng, chống khủng bố gắn với đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống cải cách điền địa, chống bắt quân dịch, làm sâu...được kết hợp một cách linh hoạt.
Trong phong trào đấu tranh chính trị, ở giai đoạn này chi bộ đã lãnh đạo nhân dân tổ chức liên tiếp các cuộc biểu tình, đã có trên 100 cuộc kéo đến trụ sở tề xã, kéo ra quận Tân Trụ mỗi lần có 80 đến 100 người tham gia. Đáng kể nhất là 4 cuộc biểu tình kéo lên Sài Gòn, 10 cuộc lên tỉnh lỵ Long An. Trong 4 cuộc biểu tình lên Sài Gòn, cuộc thứ nhất ở Nhựt Ninh có 70 người tham gia, đoàn qua chợ Rạch Kiến đón xe đò đi Sài Gòn mang theo kiến nghị gởi uỷ ban kiểm soát đình chiến quốc tế, đòi thi hành Hiệp định Genève; Hiệp thương tổng tuyển cử; đơn tố cáo chính quyền tay sai đàn áp khủng bố nhân dân. Địch đã cho cảnh sát bắt giam những người tham gia đấu tranh 3 ngày ở quận I, sau đó đưa về Long An giam 2 ngày sau đó đưa về quận Bình Phước bắt làm sâu 3 ngày rồi thả. Lần thứ hai, có trên 50 người tham gia đòi dân sinh dân chủ, những người tham gia đấu tranh đều ăn mặc rách rưới, đoàn đi đến sở thú bị cảnh sát bắt đưa về nhà máy xay gạo ở Bình Đông giam 6 ngày, chúng tra hỏi, đánh đập, bỏ đói, các bà quyết định kêu oan: “Chỉ vì bị làng lính hà hiếp, cướp hết ruộng đất sinh ra nghèo đói nên mới lên Sài Gòn kêu cứu Chính phủ quốc gia, chớ không nghe lời ai xíu giục hết”. Trong lần thứ ba đoàn đi khoảng 50 người với kiến nghị đòi được làm thẻ căn cước, chống bắt lính. Bọn cảnh sát dùng kẻm gai làm rào chặn, đoàn biểu tình quyết liệt phản đối làm náo động một vùng. Cuối cùng địch phải cử người ra nhận kiến nghị để xoa dịu nhân dân, lần thứ tư đoàn đi gần 100 người mang đơn gởi Tổng thống, gởi uỷ ban kiểm soát đình chiến quốc tế, tố cáo hành động đàn áp khủng bố của nguỵ quyền tay sai. Nhưng đi đến Phú Lâm bị địch phong toả không đi được.
Nhìn chung các cuộc đấu tranh chính trị được nổ ra liên tục, tạo được khí thế đấu tranh mạnh mẽ, kẻ địch với lực lượng quân đội, cảnh sát hùng hậu nhưng hoàn toàn bị động, yếu thế trước các đoàn biểu tình, chúng đã thẳng tay đàn áp nhưng không sao khuất phục được nhân dân. Qua các cuộc đấu tranh trực diện với địch nhận thức về cách mạng, kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ngày một nâng lên.
Trong đấu tranh chống cải cách điền địa, chống cướp đất của nông dân, chi bộ xã Nhựt Ninh đã tập trung lãnh đạo nhân dân đòi giảm tô và giữ nguyên canh. Trong điều kiện lực lượng cách mạng bị khủng bố nặng nhưng phong trào đấu tranh chống cải cách điền địa, bảo vệ quyền lợi ruộng đất của nông dân nổ ra rất quyết liệt, phong trào không những diễn ra dưới hình thức hợp pháp, công khai như làm đơn kiến nghị, khiếu nại lên cấp trên mà còn có các hình thức đấu tranh mạnh mẽ như gặp trực tiếp hoặc viết thư cảnh cáo bọn địa chủ, bọn tề nguỵ ác ôn. Cuộc đấu tranh chống địch cướp đất, tăng tô đã thu được thắng lợi lớn. Có một vài trường hợp địa chủ là người ngoài xã có ý định đòi lại đất hoặc thu tô, qua người thân của họ, cán bộ xã đã tiếp cận giải thích, họ bỏ luôn ý định vì sợ cách mạng trừng trị. Vì thế nhân dân xã Nhựt Ninh vẫn giữ được nguyên canh4
Để chống lại âm mưu bắt lính dưới chế độ quân dịch và bắt đi làm sâu ở khu trù mật Đức Huệ, chi bộ đã lãnh đạo tổ chức nhiều hình thức đấu tranh mà phổ biến nhất là nêu thắc mắc về chế độ quân dịch, xin miễn, xin hoãn hoặc hình thức cao hơn là tổ chức cho thanh niên trốn tránh, viện mọi lý do để không đi khám sức khoẻ. Vì thế các phong trào do địch phát động ở Nhựt Ninh thường đạt kết quả thấp không làm hài lòng bọn quan thầy ở quận Tân Trụ. Có lần tên quận trưởng Trương Hoà Minh đích thân xuống 2 ấp Bình Thuận, Bình Lợi chỉ huy bắt dân đi làm sâu ở khu trù mật Đức Huệ, nhưng gom được chừng 10 người thì bị ông Phạm Văn Nhãn nông dân khoảng 60 tuổi đứng lên phản đối làm náo động, thừa cơ mấy người bị bắt bỏ trốn, cuộc gom dân thất bại. Ông Nhãn bị địch bắt giam hết mấy ngày.
Bên cạnh đó, để đối phó với mọi âm mưu thâm hiểm của địch, chi bộ đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở trong nhân dân để có điều kiện tổ chức quần chúng vào cuộc đấu tranh chính trị với địch. Ta đã hình thành ở mỗi ấp trong xã các tổ vấn đổi công, hội nhà vàng, đội mai táng, đội văn nghệ... Ngoài hình thức là tương trợ giúp nhau, các tổ chức này là nơi tập hợp quần chúng được cán bộ Đảng trực tiếp móc nối, giáo dục nâng dần nhận thức cách mạng.
Công tác bịnh địch vận, tổ chức cài cắm người của ta vào hàng ngũ địch luôn được chi bộ quan tâm đặc biệt. Trong giai đoạn này ta đã xây dựng được các cơ sở của ta trong lực lượng dân vệ, trong đội thanh niên bảo vệ hương thôn nhất là vào các ban tề xã, ấp. Chính nhờ lực lượng này giúp ta chủ động đối phó các âm mưu của địch mà tránh được tổn thất. Song song đó ta vận động được một số gia đình hội tề, binh lính địch họ thường xuyên tham gia và đi đầu trong các cuộc đấu tranh chính trị tại địa phương, sự có mặt của họ vừa góp phần làm giảm nhẹ sự đàn áp, khủng bố của địch vừa góp phần phân hoá kẻ thù một cách sâu sắc.
Từ năm 1957 trở về sau là thời kỳ khó khăn ác liệt của phong trào cách mạng miền Nam nói chung và của Nhựt Ninh nói riêng. Trước sự tấn công ngày một hung hãn của kẻ thù đã gây cho ta nhiều tổn thất, cơ sở bị đánh phá liên tục, cán bộ đảng viên lần lượt bị địch bắt, hy sinh. Về phía nhân dân, vì quá bức xúc trước chính sách tàn bạo của giặc phải đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thì bị địch chụp mũ là thân cộng, là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” và lấy cớ đó đàn áp. Địch tìm mọi cách cô lập tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên ra khỏi quần chúng nhân dân; ai tố giác, báo cho chính quyền quốc gia là có công, sẽ được tưởng thưởng, ai chứa chấp Việt cộng hay có hành động liên hệ với Việt cộng đều bị bắt giam, tra tấn, tù đày.
Mặc dù kẻ địch khủng bố gắt gao, nhưng nhân dân vẫn đến với cách mạng, nhiều gia đình vẫn tìm cách để đùm bọc, chở che, nuôi dấu cán bộ ngay trong nhà, trong ngôi vườn nhà mình mà không sợ bị bắt, không nề hà công của thậm chí hy sinh cả tính mạng. Chính nhờ những tấm lòng trung kiên đó mà lực lượng cách mạng nơi đây được giữ gìn.
Trước chính sách ngày càng phát xít của Ngô Đình Diệm, để giảm bớt nặng nề cho cơ sở và duy trì sử dụng số cán bộ còn ở lại (sau tập kết) là vốn quí của phong trào cách mạng, năm 1957, xứ uỷ Nam Bộ ra chỉ thị số 17 về việc điều động và điều lắng một số cán bộ, đảng viên đã bị lộ ở nơi này chuyển sang nơi khác hoạt động, hoặc tạm thời lắng xuống chờ thời cơ, nhằm che mắt địch để tiếp tục hoạt động.
Thực hiện Chỉ thị trên, ở Nhựt Ninh, huyện điều động có các đồng chí Lê Thành Phước, Đỗ Văn Đảnh về huyện Thủ Thừa, đồng chí Trương Văn Mầu (Chín Mầu) về xã An Nhựt Tân, số đồng chí thuộc diện điều lắng trên 20 người, họ chuyển đi khắp nơi từ Sài Gòn, Vũng Tàu đến các tỉnh miền Tây, họ làm đủ các nghề để sinh sống, cắt đứt mọi liên hệ với đơn vị cũ (lúc đó gọi là lắng buông đuôi), khi có yêu cầu sẽ được tổ chức gọi về giao nhiệm vụ. Riêng đối với đồng chí Đỗ Văn Đảnh được điều động về Thủ Thừa, đi đến xã Mỹ Bình đồng chí trở lại đi ghe than, sau đó về Nhựt Ninh thay đồng chí Tám Phước làm Bí thư chi bộ.
Trước sự chuyển biến của tình hình ngày càng cho thấy cách mạng miền Nam không thể giành thắng lợi bằng con đường đấu tranh chính trị đơn thuần, mà “con đường tiến lên của cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa, giành chính quyền”. Đây là nội dung cơ bản của Nghị quyết xứ uỷ tháng 12/1956, trên cơ sở cụ thể hoá và phát triển “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẫn.
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết xứ uỷ, Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Tân Trụ tập trung kiện toàn tổ chức chi bộ các xã và khẩn trương thành lập các đội tự vệ mật ở các xã. Cuối năm 1958, Huyện uỷ chỉ đạo các xã gọi các đồng chí đi điều lắng trở về nhận nhiệm vụ tại địa phương. Tại Nhựt Ninh, chi bộ xã được củng cố do đồng chí Đỗ Văn Đảnh làm Bí thư và trên 20 đảng viên. Đội du kích mật của xã được hình thành ban đầu với 8 đồng chí do đồng chí Trần Văn Thiết (Sáu Thiết) và Văn Công Chương (Bảy Chương) chỉ huy, trang bị có 1 súng lơ-ben cũ, 2 quả lựu đạn, còn lại là mã tấu. Tuy trang bị còn thô sơ và thiếu thốn, nhưng đội du kích đã hỗ trợ rất đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị và trấn áp có hiệu quả bọn tề xã, ấp.
Về phía địch, suốt mấy năm ra sức thực hiện chương trình “tố cộng” một cách dã man và tàn ác, chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm không những không tiêu diệt được những người Cộng sản ở miền Nam mà lại làm cho phong trào cách mạng bùng lên ở khắp nơi. Tình thế đó đẩy Ngô Đình Diệm đi đến thực hiện chính sách độc tài-phát xít. Diệm đưa ra Quốc hội Sài Gòn thông qua luật 10/59, đặt những người Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, cho phép bọn ác ôn được chém đầu bất cứ ai là Cộng sản hoặc có liên hệ với Cộng sản mà không cần xét xử. Chúng lê máy chém khắp miền Nam và thực hiện khẩu hiệu “Thà giết lầm hơn bỏ xót”, thực chất của luật 10/59 là nhằm đánh vào lực lượng cách mạng, trong đó đa số là nông dân và nhân dân lao động, vì gia đình nào cũng có người thân, con em đi theo cách mạng.
Luật 10/59 đã gây thiệt hại lớn cho nhân dân và lực lượng cách mạng. Mặt khác, nó đã buộc nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại kẻ thù.
Trong lúc phong trào cách mạng tại xã có nhiều chuyển biến tích cực, thì ngày 15/8/1959, lính Quản Dờn từ xã Thuận Mỹ sang đánh vào cứ của ta tại ấp Bình Lợi (Nhựt Ninh). Kết quả địch bắn bị thương nặng đồng chí Ba Đảnh bí thư chi bộ xã và bắt sống đồng chí Chín Mầu giải về Tân An. Đồng chí Ba Đảnh hy sinh để lại tấm gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường đến hơi thở cuối cùng. Địch đã tìm mọi cách để chiêu dụ, hăm doạ để khuất phục, nhưng trước sau như một đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người Cộng sản. Đồng chí lớn tiếng chửi thẳng vào bè lũ quân bán nước tay sai, đồng chí hô “Đã đảo Mỹ-Diệm, Hồ Chí Minh muôn năm” 3 lần. Bọn giặc điên cuồng bắn chết đồng chí.
Đối với đồng chí Chín Mầu, bọn tình báo ban 2 của địch dễ dàng nhận ra đồng chí Chín Mầu là người đã tổ chức cho 6 người bạn tù cướp 3 súng vượt ngục trở về với cách mạng năm 1952. Địch đã dùng cực hình khảo tra đến chết đi sống lại nhưng đồng chí vẫn không một lời khai báo. Sau đó chúng chuyển đồng chí về quận Tân Trụ, đích thân quận Minh thẩm vấn đồng chí. Quận Minh đem lời ngon ngọt để lung lạc, y hứa sẽ tưởng thưởng xứng đáng và sẽ phóng thích ngay nếu đồng chí chịu khai báo tổ chức của mình, đồng chí Chín Mầu phun nước bọt vào mặt quận Minh và chửi hắn là quân bán nước. Quận Minh tức tối cho lính thay phiên khảo tra nhưng đồng chí vẫn không khuất phục và thách thức bọn giặc: “Cứ bắn tao đi”. Điều tra không kết quả, quận Minh giải giao đồng chí Chín Mầu về khám đường Tân An. Chúng lại dùng cực hình tra tấn, nhưng câu trả lời của đồng chí vẫn là “Cứ bắn tao đi”. Cuối cùng chúng hèn nhát bắn chết đồng chí tại Ao Nãi xã Nhơn Thạnh Trung.
Đồng chí Ba Đảnh hy sinh, đồng chí Trần Thị Sen được phân công làm Bí thư chi bộ tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng tại xã Nhựt Ninh. Ngày 16/9/1959 đồng chí nguyễn Văn Song (Tư Song) bị địch phục kích bắn hy sinh tại Voi Cả Diệp, trong vòng một tháng xã mất 3 đồng chí cán bộ chủ chốt. Đây là một tổn thất lớn, phần nào làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của xã. Chi bộ đã kịp thời lãnh đạo xốc lại tinh thần đội ngũ, nhất là tăng cường cảnh giác trước âm mưu thâm độc của kẻ thù.
II/ Tiến lên Đồng Khởi giải phóng xã (1960-1965):
Tháng 1/1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 của Đảng đã xác định “nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam...” Hội nghị chỉ rõ “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường bạo lực”5
Trong tình hình nước sôi lửa bỏng của cách mạng miền Nam cũng như của tỉnh Long An lúc bấy giờ. Nghị quyết 15 thật sự là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân trong từng xã, ấp của tỉnh tiến lên lật đổ chế độ tay sai của Mỹ ở miền Nam.
Ngày 6/1/1960, Tỉnh uỷ Long An họp hội nghị ở Giồng Ông Tưởng (Đức Huệ) phổ biến Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của khu uỷ khu 8. Đêm 25/1/1960, Tỉnh uỷ Long An phát lời kêu gọi toàn dân khởi nghĩa: “Toàn thể đồng bào trong tỉnh hãy đồng loạt nổi dậy cùng quân giải phóng trừng trị những tên tề xã, chủ ấp, thám báo, công an làm tay sai cho Mỹ-Diệm có nhiều tội ác, giải tán tất cả các tổ chức kìm kẹp của địch, lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Người nào làm cho địch mà bỏ việc, đầu thú sẽ được khoan hồng. Người nào tự nộp vũ khí cho cách mạng, cho nhân dân sẽ được thưởng thích đáng, kẻ nào ngoan cố sẽ bị trừng trị”.
Theo lời kêu gọi này, tất cả địa phương trong tỉnh đồng loạt đứng lên “Đồng Khởi”, trận đánh đồn Đức Lập đêm 25/1/1960 mở màn cho phong trào nổi dậy khởi nghĩa trong toàn tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn dân khởi nghĩa” của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Tân Trụ triển khai kế hoạch “Đồng Khởi” trong toàn huyện.
Tại xã Nhựt Ninh, trong những ngày chuẩn bị đồng khởi khí thế cách mạng rất sôi sục. Huyện uỷ phân công đồng chí Đặng Kim Vĩnh (Bảy Phú), đồng chí Phạm Văn Ngự (Út Ngự) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Bộ (Tư Tròn) phó bí thư Huyện uỷ về hỗ trợ các xã vùng hạ chuẩn bị đồng khởi.
Cuối tháng 1/1960, nhân dân trong xã đã kéo tới nhà Huyện Dương và cai Án buộc hai ông này phải ký vào bảng cam kết giảm tô cho tá điền và không thu tô đất được cách mạng cấp trước kia, nếu không chấp hành sẽ bị xử tử. Vợ con huyện Dương van xin nhân dân tha mạng, còn huyện Dương run lẩy bẩy ký vào bảng cam kết. Riêng Cai Án yếu ớt nói: Nhân dân đã muốn vậy thì tôi phải nghe theo.
Đầu tháng 2/1960, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân trong xã nổi dậy đốt chòi canh, cuốc lộ, đào công sự, đóng giả bộ đội chủ lực súng ống rần rần chuyển quân, du kích xã đã lùng bắt các trưởng, phó ấp, liên gia trưởng cả thảy 37 tên đem xử công khai trước nhân dân tại nhà bà Tám Hương (ấp Bình Hoà) và nhà ông Tăng Văn Tựu (Tám Tựu) ấp Bình Thuận. Dưới chính sách khoan hồng của cách mạng, tất cả đều được tha và họ cam kết sẽ không tham gia làm tay sai cho địch. Sáng hôm sau, ta tổ chức đoàn biểu tình gần 300 người tham gia kéo ra quận Tân Trụ tung tin tối hôm qua bộ đội về rất đông đã đốt sạch chòi canh và bắt toàn bộ trưởng, phó ấp, liên gia trưởng, tạo không khí hoang mang trong hàng ngũ địch.
Ngày 20/12/1960, nhân dân xã Nhựt Ninh mừng vui chào đón sự kiện lớn “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” ra đời, với nội dung, chương trình 10 điểm, Mặt trận là ngọn cờ đoàn kết tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tạo ra sức mạnh to lớn đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn mới.
Đối với Nhựt Ninh, Mặt trận ra đời đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng tại xã đang chuyển sang giai đoạn quyết liệt tiến công địch.
Nhân việc anh Bảy Cai, quê Nhựt Ninh trước đi lính Bình Xuyên của Bảy Viễn bị Ngô Đình Diệm đánh tan tác, là người thua trận, anh Bảy Cai bị buộc phải đi trình diện ngoài quận Tân Trụ, bửa nọ khi đi trình diện về vừa tới đầu lộ, gặp đoàn phó Xuyên đang chỉ huy lính bắt dân vác cây về đồn, bảy Cai cũng bị bắt vác cây như người dân khác, nhưng anh không nghe theo bọn lính, nên bị đoàn phó Xuyên đánh và bắt phải vác cây về đồn chợ Mới, từ nổi nhục này, anh bảy Cai ôm nổi uất hận vào lòng.
Biết rõ sự việc, anh Lê Văn Phép (Hai Phép) và anh Trần Văn Cự (Giáo Cự) là hai cán bộ hợp pháp của ta, kích động Bảy Cai và hướng tổ chức giật súng để trả thù đoàn phó Xuyên, các anh bàn tới bàn lui nhiều lần tại nhà chị Hai Siêng
Ngày 14/2/1960 được sự đồng ý của lãnh đạo, Giáo Cự mời đoàn phó Xuyên xuống quán Sáu Luông nhậu chơi (thầy giáo Trần Văn Cự là Trưởng giáo và đang dạy lớp 3 tại trường học Nhựt Ninh, trường học trước kia cất ngay trên nền các lớp mẫu giáo và quán Sáu Luông cất cạnh trường)
Lúc 10 giờ ngày hôm đó, đoàn phó Xuyên cùng 2 tên lính Bé và Giai mang 2 khẩu súng Mút-mát đến quán Sáu Luông. Giáo cự nhờ chị hai Siêng xuống kêu Hai Phép và Bảy Cai lên, tham gia cuộc nhậu có Giáo Cự, Bảy Cai, Hai Nô, Sáu Cảnh, đoàn phó Xuyên và 2 tên lính. Riêng Hai Phép không nhậu mà ngồi trên bộ ván.
Một lúc sau, sau vài lời tâng bốc, Giáo Cự mượn súng bắn chơi, đang lúc cao hứng, tên Xuyên lấy khẩu súng của lính Giai ra cửa lên đạn rồi đưa súng cho Giáo Cự, thấy giáo cự chần chờ, tên Xuyên chụp súng bắn lên trời 1 phát. Giáo Cự mới la lên: tôi biết bắn rồi, tên Xuyên lại đưa súng cho Giáo Cự. Lúc này Hai Phép theo sát Giáo Cự, còn Bảy Cai kè sát lính Bé, khi Giáo Cự nhận súng từ tay đoàn phó Xuyên, Bảy Cai chụp súng đạp tên lính Bé té chuối đầu và thuận tay anh bắn tên Xuyên cháy lổ áo trên vai. Lúc này Giáo Cự trao súng cho Hai Phép rồi cùng với Bảy Cai bắt tên Xuyên dẫn đến trước cửa nhà đồng chí Ba Me, gặp đồng chí Hai Tước, Bảy Chắc. Sau xuống nhà Hai A gặp đồng chí Tư Lo, Năm Nhựt dẫn ra Vàm rạch Cá kêu ghe đái đưa qua Thuận Mỹ (huyện Châu Thành) sau đó chuyển qua Phước Tuy (Cần Đước). Tối mới đưa về xã Tân Phước Tây, 2 ngày sau đưa về Nhựt Ninh, tổ chức xử tội tên Xuyên tại Đập Chủ Thìn (ấp Bình Thạnh)
Hơn 2 giờ đồng hồ sau lính quận do thiếu úy Búp mới vô tới bắt Ông Sáu Luông đem về quận điều tra, chúng dùng cực hình tra tấn nhưng Ông Sáu Luông vẫn một mực kêu oan, cuối cùng chúng giam ông một tháng mới thả về. Hai đêm sau đó ta tổ chức mitting có gần 500 người dân tham dự (dân 2 xã Nhựt Ninh và Đức Tân) ở ấp Bình Thạnh do đồng chí Tư Tròn phó bí thư huyện ủy chủ trì, sau khi tố cáo tội ác của bè lũ Mỹ Diệm và những thắng lợi của cách mạng Miền Nam, đồng chí kêu gọi nhân dân nổi lên đánh đổ ngụy quyền tay sai, tên đoàn phó Xiêng bị xử tử trước khí thế sôi sục của nhân dân, đoàn mitting đèn đuốc sáng trưng kéo tuần hành trên đường, ta phát loa gọi hàng bọn lính bót Chợ mới và sáng hôm sau tổ chức đoàn biểu tình cả ngàn người tản cư ra quận, kêu là bộ đội về quá đông súng ống nhiều lắm dân không dám ở, nên tản cư ra quận, chừng nào bộ đội rút mới dám về. Với đoàn đấu tranh, địch hết sức bị động lo đối phó với đoàn biểu tình bỏ luôn ý định càn quét sau sự kiện tên Xuyên bị trừng trị, trước khí thế nổi dậy của nhân dân, bọn lính đồn Cầu Dây bỏ chạy, sau đồng khởi xã Nhựt Ninh sạch đồn bót, ngụy quyền xã Nhựt Ninh phải làm việc lưu vong tại quận Tân Trụ đến tháng 10/1969 mới trở về.
Phong trào Đồng Khởi nổ ra và thắng lợi trên toàn miền, tạo ra bước phát triển nhảy vọt, tổ chức Đảng và các lực lượng cách mạng từ chỗ hoạt động bí mật, luôn bị địch săn lùng nay trở thành lực lượng hoạt động công khai, lãnh đạo quần chúng làm chuyển biến tình hình cách mạng, làm thất bại hoàn toàn chính sách “tố cộng diệt cộng” của Mỹ-Diệm, đập tan giai cấp địa chủ và làm sụp đổ đại bộ phận chính quyền cơ sở của địch, xây dựng chính quyền tự quản của nhân dân ở một số vùng nông thôn rộng lớn, mở rộng vùng căn cứ cách mạng, góp phần làm thất bại bước đầu âm mưu thôn tính miền Nam của chủ nghĩa thực dân mới, làm lung lay từng mảng chính quyền tay sai ở Sài Gòn, mở ra thời kỳ chiến tranh cách mạng chống phản cách mạng và đế quốc xâm lược.
Ở Tân Trụ sau Đồng Khởi ta đã giải phóng được 4 xã gồm Nhựt Ninh, Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông, An Nhựt Tân, các xã khác ta làm chủ từ 1 đến 2 ấp, các lõm căn cứ du kích được mở rộng. Tuy còn một số xã chưa được giải phóng nhưng vùng kiểm soát của địch đã bị thu hẹp.
Nhằm đối phó với phong trào cách mạng ngày càng lên cao và để cứu vãn chế độ Sài Gòn, đế quốc Mỹ phải chuyển sang áp dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, với tham vọng bình định miền Nam bằng quốc sách “ấp chiến lược” trong vòng 18 tháng. Với âm mưu thâm độc “dùng người Việt giết người Việt” kết hợp với những thủ đoạn chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ có vũ khí, kỹ thuật hiện đại với những biện pháp khủng bố, đàn áp khốc liệt, lực lượng chủ yếu tiến hành “chiến tranh đặc biệt” là quân đội Sài Gòn do Mỹ tổ chức trang bị, huấn luyện, chỉ huy và nuôi dưỡng với viện trợ tối đa về kinh tế, quân sự của Mỹ.
Thực hiện ý đồ của đế quốc Mỹ, Ngô Đình Diệm đã tiến hành hàng loạt biện pháp thúc đẩy chiến tranh. Chúng tăng cường bắt lính, đôn quân, trang bị vũ khí hiện đại của mỹ cho quân đội ngụy, tổ chức lại chiến trường. Cả miền Nam được tổ chức thành 4 vùng chiến thuật và biệt khu Thủ Đô. Tỉnh Long An thuộc vùng 3 chiến thuật. Địch triển khai quốc sách “ấp chiến lược” với mục tiêu cơ bản là kiềm kẹp nhân dân, tách dân ra khỏi cách mạng để cô lập, tiến tới tiêu diệt cơ sở cách mạng, đánh phá tận gốc phong trào đấu tranh và các cuộc nổi dậy của quần chúng.
Về phía Đảng ta, ngay từ đầu năm 1961, Nghị quyết Bộ Chính trị nêu rõ “thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ-Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng, liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu. Các hình thức chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho một thời kỳ cách mạng ngày càng rộng lớn”. Về phương châm đấu tranh, Nghị quyết Bộ Chính trị nêu “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả 2 mặt quân sự-chính trị và 3 mũi quân sự-chính trị-binh vận”.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết của trên, Tỉnh uỷ Long An xác định “phát huy thắng lợi của Đồng Khởi 1960-1961, động viên mọi lực lượng của tỉnh, tạo thế mới, lực mới, tiến lên giành thắng lợi cao hơn, đánh bại những thủ đoạn mới của địch trên chiến trường Long An...”.
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Tân Trụ triển khai nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang gắn với việc đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, xây dựng xã chiến đấu. Lãnh đạo quần chúng đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, binh vận hình thành thế trận 2 chân, 3 mũi trong tiến công địch. Theo đó, huyện tập trung chỉ đạo kiện toàn các tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể, thành lập ban đấu tranh chính trị, ban binh vận từ huyện xuống xã. Đồng thời lực lượng vũ trang huyện cũng được thành lập ban đầu quân số 1 trung đội (tiền thân của đơn vị C314 sau này).
Đối với Nhựt Ninh là xã giải phóng, không khí phấn khởi bao trùm là điều kiện thuận lợi để chi bộ kiện toàn tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể. Chi bộ xã lúc này có 30 đảng viên do đồng chí Trần Thị Sen (Tư Sen) làm bí thư, đây là một tập thể được trui rèn; thử thách qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng nên rất vững vàng, kiên định. Đối với các đoàn thể, sau Đồng Khởi số người xin gia nhập rất đông, hoạt động rất sôi nổi. Đoàn thanh niên do đồng chí Phạm Công Huẩn (Tư Huẩn) làm bí thư, Hội phụ nữ do đồng chí Trần Thị Lựu (Ba Lựu) làm hội trưởng, Hội Nông dân do đồng chí Nguyễn Văn Đấu (Sáu Đấu) làm hội trưởng. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng xã được thành lập đầu năm 1961 làm chức năng như chính quyền cấp xã dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ. Năm 1962 xã thành lập Ban đấu tranh do đồng chí Nguyễn Thị Chanh (Mười Chanh) phụ trách, Ban binh vận do đồng chí Trần Văn Các (Hai Các) phụ trách.
Sau Đồng Khởi, đội du kích xã phát triển thành 1 trung đội được trang bị một số ít súng lấy của địch, còn lại là súng tự tạo, mã tấu, lựu đạn,...Tuy trang bị còn thô sơ, thiếu thốn nhưng tinh thần chiến đấu rất cao. Mỗi ấp có một tiểu đội du kích chuyên làm nhiệm vụ canh gác, báo động khi có giặc.
Nhằm bảo vệ địa bàn xã giải phóng, chi bộ đã phát động trồng cây gây rừng, xây dựng xã chiến đấu, xây dựng khu căn cứ Đám Lá Tối Trời thêm vững chắc. Để ngăn bước tiến của giặc, xã đã vận động nhân dân đào kênh chống xe tăng ở Nhựt Chương, Nhựt Long, đồng thời cuốc lộ phá Cầu Dây, Cầu Bà Tổng, Cầu Làng, Cầu Dừa. Ta phát động nhân dân đào công sự khắp nơi để giúp bộ đội, du kích chủ động đánh địch, đào hầm trú ẩn để giúp nhân dân tránh bom pháo địch. Trên các tuyến xung yếu du kích xã bố trí các bải chông, mìn và vô số hầm chông, bẩy gài đạp lôi; lựa đạn ong vò vẻ được nguỵ trang khéo léo che mắt địch. Năm 1962 ta gia cố thêm “bờ cản” (cửa ngỏ vào Đám Lá Tối Trời) trên trồng cây trâm bầu, gài mìn, lựu đạn, dưới hào thì cắm chông. Với việc hình thành xã chiến đấu tỏ rõ sự quyết tâm rất lớn của chi bộ và nhân dân Nhựt Ninh, chính tấm lòng của người dân ở đây biến xã chiến đấu thêm vững chắc. Và từ đây trở về sau địa danh Nhựt Ninh cùng với Đám Lá Tối Trời luôn là nổi ám ảnh kinh hoàng của sĩ quan và binh lính địch, vì khi bị đẩy phải càn vào xã Nhựt Ninh nếu không bị du kích chặn đánh thì cũng giẩm phải chông, mìn làm thương vong, càn vào Nhựt Ninh mà còn sống là một lần chết hụt.
Trong giai đoạn này chi bộ xã có sự thay đổi, tháng 1/1962 đồng chí Trần Thị Sen (Tư Sen) được điều về huyện làm hội trưởng phụ nữ. Đồng chí Phạm Văn Lo (Tư Lo) thay làm Bí thư chi bộ, đến năm 1963 đồng chí Tư Lo sang làm bí thư chi bộ xã An Nhựt Tân, đồng chí Nguyễn Văn Quan (Sáu Quan, có biệt danh là Hoàng tử lưng gù) lên làm bí thư chi bộ.
Cuối năm 1962, công trường sản xuất vũ khí của huyện được xây dựng tại Rạch Lớn thuộc Đám Lá Tối Trời do đồng chí Nguyễn Văn Đại (Út Đại) làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Văn Trà (Út Tí) và đồng chí Hai Hoà làm phó ban. Ta phát động nhân dân thu gom đồng, thau sắt vụn, bom đạn lép, vỏ đạn, mua nhiên liệu chế thuốc. Công trường được chia làm 3 tổ: tổ bào chế thuốc nổ, tổ sản xuất đầu đạn và tổ sửa chữa súng. Được nhân dân giúp đỡ công trường đã sản xuất nhiều vũ khí như lựu đạn, đạp lôi, súng lửa, súng ngựa trời góp công giết giặc.
Về phía địch, thỉnh thoảng chúng tổ chức các trận càn quét hay tổ chức phục kích ở các điểm mà chúng nghi ngờ nơi lực lượng ta qua lại, nhưng lần nào cũng bị đánh trả gây thiệt hại. Cụ thể như năm 1962 bộ đội huyện cùng du kích xã đã chặn đánh 1 đại đội bảo an từ Tân Trụ càn vào ấp Nhựt Chương diệt 10 tên thu 2 súng, năm 1963 đơn vị C2 biệt lập của tỉnh cùng du kích xã chặn đánh 1 tiểu đoàn địch được tàu chiến máy bay yểm trợ đổ vào 2 ấp Bình Thuận và Bình Lợi ta diệt gần 100 tên thu nhiều vũ khí và quân trang quân dụng.
Tháng 10/1963, tỉnh tổ chức 1 lớp tập huấn chính trị cho cán bộ các huyện khoảng 30 người tại Rạch Lớn thuộc Đám Lá Tối Trời. Giặc đi bằng tàu dọc theo sông Vàm Cỏ Đông tiến vào khu cán bộ học tập, lớp học có nguy cơ bị tiêu diệt, lúc ấy đồng chí Nguyễn Văn Đại (Út Đại) và Ngô Văn Tưởng (Tám Tưởng) quyết định hy sinh, 2 đồng chí nổ súng hút lực lượng địch về rạch Ông La xa lớp học, đồng chí Tám Tưởng trúng đạn hy sinh, đồng chí Út Đại bị thương rút chốt lựu đạn kẹp vào nách, bọn địch ùa lại bắt sống lựu đạn nổ làm chết 1 tên lính và 1 tên khác bị thương, đồng chí Út Đại hy sinh lớp học được cứu thoát.
Năm 1963 một bộ phận thuộc tiểu đoàn 1 do đồng chí Nguyễn Văn Xê (Tư Vũ) chỉ huy đã cùng du kích xã đón đánh 1 tiểu đoàn địch được tàu đổ từ sông Vàm Cỏ lên và 1 đại đội lính bảo an từ Tân Trụ vào tại Xóm Chùa, kết quả diệt 70 tên. Từ năm 1963 địch chỉ tổ chức một vài cuộc càn quét vào Nhựt Ninh nhưng không thu được kết quả khả quan nào, nhưng thay vào đó địch bắn pháo dữ dội vào Nhựt Ninh và tăng cường hoạt động thám báo, chỉ điểm nhưng bị nhân dân phát hiện và bị trừng trị như trường hợp tên gián điệp Sáu Tâm đội lốp tôn giáo về hoạt động tại ấp Nhựt Tân, những tên tình báo Bướu, Bạch cũng bị tiêu diệt.
Cũng trong giai đoạn này (1963) lực lượng quân y của ta cũng đã về Đám lá Tối Trời xây dựng cơ sở điều trị thương binh, ngoài lực lượng quân y của huyện Tân Trụ đóng ở ngôi Ông Tám Quang, còn có quân y huyện Châu Thành đóng ở ngôi Ông Chín Thuận đều thuộc khu vực Rạch Lớn, lực lượng quân y của tỉnh cũng về đóng ở Rạch Bà Thôn, đến năm 1965 quân y huyện Châu Thành rút đi, còn lại lực lượng quân y của huyện Tân Trụ và của tỉnh, các cơ sở quân y hoạt động mạnh và có hiệu quả có thể điều trị từ 200-300 thương bệnh binh mỗi lượt, nhân dân xã Nhựt Ninh đã đóng góp công xây dựng hầm hào, lán trại chứa thương binh, cung cấp lương thực, thuốc men cho các đơn vị quân y. Bên cạnh đó phong trào tòng quân nhập ngũ được nhân dân hưởng ứng sôi nổi từ năm 1961 đến năm 1963 Nhựt Ninh có trên 150 thanh niên nhập ngũ.
Cùng với đấu tranh vũ trang, Đảng bộ Nhựt Ninh phát động đấu tranh chính trị mạnh mẽ, các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn pháo, chống bắt lính, chống càn quét đã nổ ra liên tục. Mỗi tháng có từ 2 đến 3 cuộc, có tháng 4, 5 cuộc nhiều nhất là kéo ra Tân Trụ và vài lần đi tỉnh. Đặc biệt khi có người dân bị chết, bị thương do pháo của địch gây ra là quần chúng phẫn nộ kéo đi đấu tranh đòi ngưng bắn pháo. Như trường hợp Chị Rảnh ở ấp Bình Thạnh đi cấy bị pháo từ Cần Đước bắn sang tiện mất 1 chân vào ngày 6/6/1964, 10 giờ ngày hôm đó nhân dân Nhựt Ninh cùng nhân dân xã lân cận Đức Tân gần 600 người người khiêng cái chân của chị Rảnh kéo ra quận Tân Trụ, địch đã bắn 3 trái pháo để huy hiếp đoàn biểu tình nhưng lực lượng đấu tranh vẫn kéo ra đến dinh quận la khóc inh ỏi tố cáo nhà cầm quyền bắn bom pháo giết hại dân lành. Trước khí thế của quần chúng, tên quận trưởng Tân Trụ chấp nhận yêu sách ngưng bắn pháo của nhân dân, hay trường hợp của Ông Trần Văn Truyện (Ba Truyện) ở Bình Lợi bị pháo bắn bị thương nhân dân đã lấy võng khiêng ra quận Tân Trụ đòi ngưng bắn pháo, đòi bồi thường. Đặc biệt là cuộc đấu tranh tố cáo hành động dã man của địch khi đã bắn chết anh Đấu ở Đức Tân, chúng đã dùng nhục hình trên thi thể người chết, nhân dân Nhựt Ninh đã cùng nhân dân các xã Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông, Đức Tân hàng ngàn người hội quân ở ngã tư Tân Phước, mỗi người có 1 băng tang kéo ra Tân Trụ tố cáo hành động dã man của địch. Tên quận trưởng cho lính đàn áp, bắt đánh đập một số người và lùa bà con còn lại vào sân phơi nắng, lấy nước sơn vẽ bậy vào nón, áo của những người đi đấu tranh. Nhưng được sự lãnh đạo tốt ta tổ chức đoàn thứ hai kéo ra để tiếp viện, vừa tiếp tế cơm nước vừa đấu tranh thả người dân vô tội, trước khí thế quyết liệt của nhân dân, bọn địch hoảng sợ buộc phải chấp nhận các yêu sách của nhân dân đưa ra.
Cuối năm 1964, đồng chí Sáu Quan hy sinh, đồng chí Nguyễn Văn Thăng (Bảy Thăng) lên làm bí thư chi bộ, chi uỷ gồm: Nguyễn Văn Thăng (Bảy Thăng) làm bí thư, Lê Văn Ngộ (Hai Ngộ) phó bí thư và các chi uỷ viên: Mai Bá Văn (Tư Văn), Võ Văn Vọng (Năm Nghè), Lê Văn Kiềm (Năm Kiềm), Năm Sưu.
III/ Toàn dân tham gia đánh Mỹ, diệt nguỵ, bảo vệ địa bàn xã giải phóng (1965-1968):
Trước sự tấn công vũ bảo của quân và dân miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị phá sản, nguỵ quyền tay sai bước vào thời kỳ khủng hoảng triền miên không lối thoát. Trên các chiến trường, quân nguỵ bị đánh tan từng mảng. Để cứu nguy cho cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam và chiến lược “chiến tranh cục bộ” bắt đầu.
Sau khi đưa quân vào miền Nam hơn 20 vạn quân mỹ và chư hầu, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược nhằm tiêu diệt lực lượng ta, phá các căn cứ, kho tàng, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, mở rộng và củng cố vùng chiếm đóng của chúng; đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngăn chặn mọi chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, phá hoại về kinh tế, quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Trước tình hình ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Dù Mỹ trực tiếp đưa vào miền Nam bao nhiêu vạn quân, dù phải chiến đấu 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, nhân dân Việt Nam cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”6
Tháng 12/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 12. Sau khi phân tích một cách sâu sắc khoa học và toàn diện tình hình, hội nghị khẳng định: “Nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch”. Về phương châm đấu tranh Trung ương chỉ rõ: “Phải tiếp tục kiên trì đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng 3 mũi giáp công”7
Tinh thần Nghị quyết 12 của Trung ương được cụ thể hoá bằng các Nghị quyết, chỉ thị của khu uỷ khu 8, Tỉnh uỷ Long An. Huyện uỷ Tân Trụ triển khai, quán triệt trong toàn Đảng bô và nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ ngay trận đầu khi chúng đổ quân vào địa bàn
Để chủ động đánh địch, Tỉnh ủy Long An chủ trương chuẩn bị đánh Mỹ thiết thực nhất là tích cực mở nhanh vùng giải phóng, đánh quỵ triệt để sư 25 ngụy, để khi quân Mỹ vào không có chỗ dựa, trên cơ sở đó đánh phủ đầu chúng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, liên tiếp trong khoảng thời gian từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1967 quân và dân huyện Tân Trụ đã tiến đánh đồn bót, phá hoại giao thông mở rộng vùng giải phóng. Trong đó có 3 lần san phẳng đồn Lạc Tấn, du kích Bình Tịnh làm chủ và cuốc phăng nhiều chỗ đoạn lộ Cống Bần làm gián đoạn giao thông, chi khu Tân Trụ bị cô lập hoàn toàn, nhiều tháng liền địch phải tiếp tế bằng thực thăng, đến giữa năm 1966 mới khôi phục lại và cử nguyên một trung đội lính bảo an chuyên mở đường từ chi khu Tân Trụ lên Lạc Tấn. Tháng 12/1966, bộ đội huyện phối hợp lực lượng vũ trang Tỉnh diệt gọn trung đội lính bảo an mở đường lúc 8 giờ sáng làm cho địch hết sức bất ngờ.
Trong giai đoạn này, địch cho lính sư 25, lính bảo an, biệt kích tổ chức trên 100 cuộc càng lớn nhỏ vào vùng giải phóng, vào các lõm căn cứ của ta, nhưng lần nào cũng bị du kích bắn tỉa và dẫm chông mìn gây thương vong. Bên cạnh đó, lực lượngvũ trang huyện, du kích xã được bộ đội tỉnh hỗ trợ tổ chức đánh “hàng chục trận diệt hàng trăm tên giặc”. Trên đất Nhựt Ninh năm 1965 chi bộ phân công đồng chí Mai Bá Văn (Tư Văn) cán bộ tuyên giáo đứng ra vận động nhân dân xây dựng Đài liệt sĩ cạnh đình Bình Ninh. Lúc khánh thành có nhà thơ Tô Uyên và Giang Nam dự. Năm 1967 lính Mỹ đặc chất nổ đánh sập, hiện nay còn phần đế hình lục giác. Năm 1965 theo chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Bộ (Tư Tròn) Bí thư huyện ủy Tân Trụ, xã Nhựt Ninh tổ chức thí điểm HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG bàn việc cứu nước Hội nghị được tổ chức tại nhà ông Hào Vệ (ấp Nhựt Long) được trang trí bàn thờ Tổ quốc, băng cờ khẩu hiệu rất trang trọng. Dự Hội nghị có đồng chí Châu Văn Bảy Chủ tịch Mặt trận giải phóng Tỉnh và các đồng chí Tư Sen, Tư Huẩn, Sáu Đấu....cán bộ Huyện và có trên 100 người tham gia, trong đó có 30 bô lão. Khi chủ tọa hỏi “Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta gây nhiều tội ác, xin hỏi bà con nên hòa hay chiến”..? thì tất cả mọi người đồng loạt hô: “Chiến, chiến, chiến”. Chủ tọa hỏi tiếp, “Muốn đánh Mỹ thắng lợi, phải có con người, phải có lực lượng. Bà con sẵn sàng động viên chồng, con em mình lên đường đánh giặc cứu nước hay không”. Tất cả đồng thanh đáp “Sẵn sàng” 3 lần. Sau Hội nghị có trên 100 thanh niên xã Nhựt Ninh lên đường nhập ngũ (cộng các đợt trong năm Nhựt Ninh có trên 200 thanh niên nhập ngũ), có nhiều gia đình sẵn sàng đưa đứa con cuối cùng của mình lên đường như ông Huấn Thị, Hào Vệ, Tư Dư...Ngày tiển đưa thanh niên xã lên đường tòng quân có đoàn quây phim, đoàn Văn Công của Tỉnh về phục vụ, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi chưa từng thấy. Năm 1966 đồng chí Nguyễn Văn Thăng chuyển lên công tác tại xã Tân An, đồng chí Lữ Văn Khá (Chín Khá) xã đội trưởng được phân công làm Bí thư chi bộ, đồng chí Hai Nơi và đồng chí Lưu Văn Thông (Tư Thông) được phân công thay thế đồng chí Chín Khá. Là xã giải phóng, trong giai đoạn này các phong trào cách mạng của xã lên rất cao, đặc biệt là công tác xây dựng xã, ấp chiến đấu vững chắc luôn được chi bộ quan tâm lãnh đạo. Địch đã nhiều lần xua quân càn vào xã, nhưng lần nào cũng bị lực lượng vũ trang của ta dựa vào địa hình xã, ấp chiến đấu đánh tháo chạy. Như năm 1966, bọn Mỹ đóng ở căn cứ khu xáng (Tân An) khoảng 1 trung đội dùng trực thăng đổ, cán vào ấp Nhựt Tân, du kích Nhựt Ninh do đồng chí Chín Khá chỉ huy chặn đánh, ngay loạt đạn đầu tiên ta diệt 4 tên, địch phản kích và gọi pháo binh bắn dữ dội vào hướng du kích. Du kích dựa vào công sự đã được đào sẵn nên rất an toàn, bom pháo ngưng, du kích nổ súng vào quân Mỹ, địch lại phản kích dữ dội, sau quân Mỹ cho máy bay trực thăng bắn phá dọn bải để đưa cả bọn về căn cứ. Đây là trận chạm trán đầu tiên giữa quân Mỹ và du kích trên đất Nhựt Ninh. Dù có phần chủ động nhưng du kích xã Nhựt Ninh không khỏi bất ngờ trước hỏa lực của quân Mỹ, lực lượng du kích xã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm trong lần chạm trán này.
Ngày 22/1/1966, 01 tiểu đoàn lính sư 25 ngụy, lính bảo an quận có tàu chiến, máy bay và pháo binh yểm trợ tấn công vào Đám lá tối trời Nhựt Ninh, tại đây chúng đã bị tiểu đoàn 1 Long An, đại đội địa phương huyện và du kích xã chặn đánh diệt 200 tên, trong đó có 4 cố vấn Mỹ, bắn chìm 1 tàu chiến thu trên 30 súng và nhiều quân trang, quân dụng.
Do bị thất bại trong các cuộc hành quân đánh chiếm, địch đã điên cuồng nã pháo vào vùng giải phóng và các lõm căn cứ du kích. Với cường độ bắn pháo ngày càng tăng đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của ta và làm thiệt hại đến tính mạng và tài sản nhân dân. Để chống lại chúng, huyện ủy chỉ đạo chi bộ các xã phát động nhân dân trong huyện tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt đòi địch ngưng bắn pháo.
Đối với xã Nhựt Ninh, địa bàn xã giải phóng với Đám lá tối trời là nơi địch cho là cơ quan đầu não của phong trào cách mạng trong huyện, từ lâu địch tìm mọi cách để tiêu diệt nhưng Đám lá tối trời sừng sửng tồn tại trước sự căm tức của kẻ thù. Địch đã huy động các cụm pháo từ Tân Trụ, Bến Lức, Cần Đước, Châu Thành cứ cách 1 giờ chúng bắn 1 lần vào xã Nhựt Ninh. Thực hiện chỉ đạo của huyện ủy, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân tổ chức các cuộc đấu tranh tố cáo hành động gây nhiều tội ác của địch. Phong trào nhân dân đấu tranh đòi ngưng bắn pháo diễn ra với mức độ, hình thức ngày càng tăng, bình quân mỗi tháng từ 4 đến 5 lần, đặc biệt số lần kéo lên tỉnh nhiều hơn trước, bình quân mỗi cuộc có từ 200 người tham gia, nhân dân đi từ 3 cánh. Cánh thứ nhất đi bằng đò máy kéo lên cầu tàu Tân An. Cánh thứ hai ra Tân Trụ đi xe đò lên Tân An. Cánh thứ ba đi đò qua ngã xóm Giồng lên ngã tư Thanh Phú Long đón xe đò lên Tân An.
Với cách tổ chức như vậy, ta đi trót lọt vài ba lần, sau đó địch phát hiện cho lính chặn các ngã, nhân dân phản đối quyết liệt địch đã huy động hàng đại đội lính để ngăn chặn đoàn đấu tranh. Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng nhân dân Nhựt Ninh không hề khuất phục
Đầu năm 1966, nhân sự kiện người dân ở Triêm Đức bị lính bắn chết được nhân dân đặt xác vào quan tài không đậy nắp khiêng ra quận Tân Trụ đấu tranh đòi thường mạng, cuộc đấu tranh này có nhân dân các xã Nhựt Ninh, Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông tham gia. Giữa năm 1966 có 2 em bé trên 10 tuổi ở ấp Bình Hòa xã Nhựt Ninh đi nhổ cỏ ruộng bị pháo bắn chết, nhân dân Nhựt Ninh đã khiêng xác 2 em nhỏ ra Tân Trụ đấu tranh, hay tin nhân dân các xã Đức Tân, Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông kéo theo hưởng ứng rất đông địch cho lính đàn áp nhưng đoàn đấu tranh và xông tới kêu khóc in ỏi và lớn tiếng tố cáo “quân đội quốc gia” bắn bom pháo giết hại người dân vô tội, cuộc đấu tranh đã gây xúc động sâu sắc trong lòng binh lính địch.
Mặc dù địch vẫn tăng cường bắn phá gây nhiều khó khăn cho ta nhưng phong trào cách mạng của Nhựt Ninh trong giai đoạn này diễn ra rất sôi nổi, các chủ trương của chi bộ được nhân dân triệt để ủng hộ, giữa các lằn đạn pháo nhân dân vẫn tích cực tăng gia sản xuất để đóng góp lương thực nuôi quân, trong hạt gạo nghĩa tình đã thắm đượm máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân Nhựt Ninh trong thời gian kháng chiến.
Ngày 24/1/1967, Mỹ đổ quân xây dựng căn cứ quân sự tại ngã ba Bình Hoà xã Bình Tịnh, với quân số gồm 1 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 chi đoàn thiết giáp. Tiếp theo ngày 16/3/1967 Mỹ đóng chốt tại chợ Nhựt Tảo với quân số 1 đại đội. Cùng với việc triển khai quân trên bộ, trên 2 con sông Vàm Cỏ, hải quân Mỹ triển khai hạm đội nhỏ với các căn cứ cầu Nổi (Cần Đước), Bến Lức, Tân Trụ với hơn 100 tàu chiến. Các đoạn sông thuộc địa bàn Tân Trụ là một trong những phạm vi hoạt động của hải quân Mỹ ở Nam Long An. Quân Mỹ từ căn cứ Bình Tịnh, chốt Nhựt Tảo cùng hải quân Mỹ ở Nam Long An thường xuyên bung ra hành quân bắn phá rất ác liệt trên địa bàn các xã ở huyện Tân Trụ.
Trước áp lực của địch, tuy có gây cho ta rất nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, chi bộ xã Nhựt Ninh đã lãnh đạo nhân dân kiên cường bám trụ đánh giặc, bằng thế trận chiến tranh du kích, nhân dân xã Nhựt Ninh đã biến từng gốc trâm bầu, bờ mương con liếp thành hào lũy chống giặc.
Trong năm 1967, quân Mỹ ở Bình Tịnh trên 10 lần đổ quân càn vào Nhựt Ninh nhưng lần nào chúng cũng bị thương vong, nhiều thì 5 đến 10 tên, ít thì vài ba tên, du kích lúc ẩn; lúc hiện bắn tỉa gây cho địch nhiều bất ngờ. Ngoài những trận địa chông, mìn, lựu đạn dầy đặc du kích còn sáng tạo nhiều cách đánh thông minh nhưng vô cùng hiệu quả, tháng 7/1967 ta tổ chức treo một lá cờ mặt trận giải phóng trên một ngọn cây ở ấp Bình Thuận, dưới trụ cờ gài 2 quả lựu đạn, một chiếc máy bay trực thăng “lồng kẻm” xà xuống nhổ cờ, lựu đạn nổ máy bay địch rơi xuống đất. Tháng 10/1967 lính Mỹ càn vào ấp Bình Thuận, đến tối chúng trụ lại bờ cản để phục kích lực lượng ta. Đồng chí Lê Văn Trà du kích xã đã lấy mìn định hướng treo lên cây trâm bầu đánh ụp xuống làm lính Mỹ hốt hoảng, chúng tức tốc gọi trực thăng bốc cả bọn về Bình Tịnh. Ta không biết số thương vong của địch là bao nhiêu nhưng trên trận địa địch để lại nhiều vết máu và bông băng.
Với những chiến công của quân và dân xã Nhựt Ninh trong buổi đầu đánh Mỹ đã góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc” danh hiệu cao quí được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trao tặng cho quân và dân Long An (tháng 9/1967), đây cũng là nguồn động viên cổ vũ cho phong trào cách mạng huyện Tân Trụ nói chung và xã Nhựt Ninh nói riêng trong chặng đường kháng chiến còn nhiều cam go thử thách.
Sau khi đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 của địch, ta vẫn giữ quyền chủ động trên chiến trường. Trong tình thế chiến lược chung ấy, Đảng ta chủ trương tiến hành cuộc “Tổng công kích tổng khởi nghĩa”. Xác định phương hướng tiến công chiến lược là đô thị, trong đó trọng điểm số 1 là Sài Gòn- Chợ Lớn. Thời điểm tấn công là dịp Tết Mậu Thân (tháng 1/1968)
Để chuẩn bị cho “Tổng công kích tổng khởi nghĩa”, tháng 10/1967 tỉnh Long An và một số quận huyện của Sài Gòn- Chợ Lớn được tổ chức thành 2 phân khu (phân khu 2 và phân khu 3) trong đó huyện Tân Trụ thuộc phân khu 3.
Do nằm trên tuyến hành lang vận chuyển của ta từ Đông sang Tây (và ngược lại) nên xã Nhựt Ninh có vinh dự tham gia chiến dịch lần này với nhiệm vụ: ổn định địa bàn tạo điều kiện cho các đơn vị của phân khu trú quân chuẩn bị tiến đánh Sài Gòn và Thị xã Tân An. Huy động nhân dân phục vụ hậu cần, phương tiện vận chuyển bộ đội qua sông. Xã Nhựt Ninh cùng với huyện Tân Trụ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Là xã giải phóng, Nhựt Ninh bảo đảm an toàn các địa điểm tập kết; chuyển quân của lực lượng trên, huy động nhân dân cung cấp lương thực, nước uống; huy động hàng trăm ghe xuồng đưa rướt hàng ngàn lượt bộ đội qua 2 con sông Vàm cỏ an toàn.
Trước đó lực lượng dân quân hỏa tuyến của xã gần 300 người hàng tháng trời từ Nhựt Ninh lên Ba Thu (Đức Huệ) vận chuyển vũ khí về Nhựt Ninh và từ Nhựt Ninh phục vụ chiến dịch xuân Mậu Thân. Lực lượng dân công của xã đã vượt qua chặng đường dài với nhiều hiểm nguy đe dọa bởi đồn bót, biệt kích, bom pháo địch đã có nhiều người hy sinh, bị thương nhưng họ vẫn dũng cảm vượt qua với tinh thần khẩn trương quyết liệt, theo mệnh lệnh chiến trường.
Trong chiến dịch huyện Tân Trụ huyện đưa về trên 1 trung đội, trong đó xã Nhựt Ninh có 14 đồng chí.
Trong và sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, thương binh được đưa về khu quân y đóng ở căn cứ Đám Lá Tối Trời gần 1000 người sau khi sơ cứu, trừ những thương binh nặng, những người còn lại được gởi ở nhà dân ở các ấp của xã Nhựt Ninh. Được nhân dân tận tình chăm sóc đến bình phục trở lại đơn vị. Trong thời gian này cán bộ quận 7, quận 8, I4 cũng về trú ngụ ở Nhựt Ninh (gởi ở nhà dân) được bà con nhân dân cưu mang, giúp đở như người thân của mình.
Về phía chi bộ xã Nhựt Ninh tháng 1/1968, đồng chí Lữ Văn Khá (chín Khá) được huyện rút, đồng chí Lê Văn Ngộ (Hai Ngộ) được phân công làm Bí thư chi bộ, đến tháng 10/1968 đồng chí Hai Ngộ lại được huyện rút và đồng chí Mai Bá Văn (Tư Văn) được phân công thay thế.
Tháng 4/1968, bốn máy bay trực thăng chở lính Mỹ bất thần đổ quân vào khu căn cứ Đám lá tối trời, chúng bị ong Vò vẽ của đồng chí Võ Văn Vọng (Năm Nghè) tấn công. Từ sáng đến trưa 1 trung đội Mỹ có phi pháo yểm trợ đã bị ong Vò vẽ đánh tháo chạy.
IV/ Vượt qua khó khăn thử thách, tiến lên giải phóng quê hương (1969-1975)
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân và những thắng lợi nối tiếp sau đó đã làm cho chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn. Trước tình hình ấy buộc Mỹ phải đổi hướng chiến lược và xuống thang chiến tranh.
Tháng 4/1969, sau khi đắc cử tổng thống Mỹ, Nixon tuyên bố chính thức triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” về cơ bản, đó là cuộc chiến tranh giữa người Việt Nam với nhau. Nó được chuyển hoá từ cuộc chiến tranh giữa người Mỹ với người Việt Nam. Âm mưu cơ bản vẫn là “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”, cốt lõi của “Việt Nam hoá chiến tranh” là chương trình bình định nông thôn được Mỹ tiến hành cụ thể trong từng giai đoạn từ chương trình “bình định xây dựng” đến chương trình “bình định phát triển” với tham vọng hoàn toàn kiểm soát các vùng tranh chấp và lấn chiếm một số vùng giải phóng của ta.
Tình hình chung của cách mạng Miền Nam là sau cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, địch phản kích ác liệt, tình thế ngày càng trở lên bất lợi cho ta vì sau khi dồn hết sức lực cho đợt tiến công vào thành phố, lực lượng của ta bị hao hụt về quân số, sức chiến đấu giảm. Lực lượng địa phương, cơ sở dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng trước sự càn quét liên tục của địch nên đã chịu nhiều tổn thất.
Từ tháng 4/1969, Mỹ bắt đầu rút một số đơn vị ở các nơi về Mỹ. Riêng ở Long an, Mỹ lại tăng thêm quân để thực hiện cho xong chương trình “bình định xây dựng” nên chưa bao giờ trên đất Long An lại tập trung nhiều lực lượng Mỹ-nguỵ như thời kỳ giữa năm 1969. Riêng trên đất Tân Trụ, quân Mỹ đóng cấp trung đoàn ở căn cứ Bình Tịnh; 01 đại đội ở Nhựt Tảo. Quân nguỵ có 3 đại đội địa phương quân, tiểu đoàn 4 trung đoàn 50 sư 25, tiểu đoàn 303, cán bộ bình định trên 150 tên. Trên sông hàng trăm tàu thuyền hải quân nguỵ phối họp tuần tra ngày đêm trên 2 tuyến sông Vàm cỏ.
Đối với xã Nhựt Ninh được xem là trọng điểm đánh phá trong chương trình bình định của địch, vùng địa hình vốn là nơi du kích xã đứng chân nay bị đánh phá liên tục bởi các loại phi pháo. Ban ngày địch tổ chức hành quân phát hoang dài ngày, ban đêm có tàu chiến, ô-bo cùng trực thăng “soi” các sông rạch, cùng lúc bọn biệt kích thường tổ chức các cuộc phục kích để đánh vào lực lượng ta. Với việc đánh phá ác liệt của giặc đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho ta, cán bộ; chiến sĩ của xã vào trú trong các hầm bí mật ở nhà dân, được nhân dân nuôi dấu và giúp đỡ thông tin liên lạc.
Tháng 8/1969, lính Mỹ càn cấp đại đội vào ấp Nhựt Long. Ta tổ chức đánh trả quyết liệt, một mình đồng chí Tám Hiếu xoay quanh cây mắm gần nhà đồng chí Tư Văn diệt 9 tên Mỹ, đồng chí Tám Hiếu hi sinh khi bắn đến viên đạn cuối cùng.
Tháng 10/1969 địch đưa tiểu đoàn 4 thuộc trung đoàn 50, sư 25 nguỵ về đóng đồn ở Cầu Dây, đồn Giếng Mạch (ấp Bình Thuận), đồn Nhựt Long, đồn Nhựt Tân, cùng lúc chúng đưa đoàn cán bộ bình định gồm 59 tên, bọn tề xã đang làm việc lưu vong về Nhựt Ninh, chúng xây dựng lại bộ máy chính quyền xã, ấp để thực hiện chính sách bình định xã Nhựt Ninh. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng phong trào cách mạng tại Nhựt Ninh vẫn được giữ vững, những đảng viên là dân (hoạt động họp pháp) cùng quần chúng nòng cốt đóng vai trò chính trong thông tin liên lạc, binh vận, tiếp tế lương thực, thuốc men và tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn trước âm mưu bình định của giặc, do bọn cán bộ bình định; bọn tình báo trà trộn ngày đêm theo sát từng nhà dân, ta phải chuyển hầm bí mật xuống lá, các ngôi đất hoang...cuộc sống, chiến đấu của cán bộ xã hết sức gian khổ, suốt ngày ở dưới hầm bí mật, tối lên nhà cơ sở ăn cơm, nắm tình hình và chỉ đạo phong trào rồi chuẩn bị cơm, nước cho ngày hôm sau, việc đi lại ăn ở phải thay đổi liên tục để tránh sự theo dõi của địch. Sau, địch cũng đánh hơi và tìm mọi cách để cắt đứt đường tiếp tế, liên lạc giữa cách mạng và nhân dân. Nhân dân đã mưu trí chống lại và bất chấp nguy hiểm hi sinh đến với cách mạng. Họ đã giả vờ đi bắt cá, mò cua, đi làm đồng....vượt qua sự kiểm soát gắt gao của địch để giúp đở cách mạng.
Cuối năm 1969, địch dùng chất độc hoá học, phun xăng huỷ diệt rừng lá dừa nước mọc ven sông rạch, nhất là khu căn cứ Đám lá tối trời, giặc sử dụng máy bay tàu chiến cùng bộ binh càn quét liên tục vào Nhựt Ninh mà trọng điểm là căn cứ Đám lá tối trời. Tại đây chúng đã tấn công gây thiệt hại nặng cho quân y huyện, công trường sản xuất vũ khí huyện. Trước sự tấn công mạnh mẽ của kẻ thù có lúc chi bộ Nhựt Ninh phải chuyển vùng hoạt động, chỉ còn một số ít bám lại, nhưng địch đã chà đi xát lại nhiều lần nên không sao tránh khỏi tổn thất, như trường hợp của đồng chí Võ Văn Vọng (Năm Nghè) là cán bộ bám trụ hai thời kỳ. Trong một ngày cuối năm 1969, giặc đã tấn công vào Đám lá tối trời, hầm của đồng chí Năm Nghè bị trúng pháo, máu chảy đỏ cả con rạch, lần theo vết máu bọn giặc đã tìm ra nơi ẩn náo của những người trong hầm, cả 3 người đều bị thương nặng gồm: Năm Nghè, Năm Minh, Tám Xê. Giặc đã lần lượt khiên 2 người kia xuống tàu, còn đồng chí Năm Nghè nhất quyết không chịu đi, không chịu băng bó và lớn tiếng tố cáo tội ác của giặc. Bọn giặc tức tối xả đạn bắn chết ông. Nhân dân Nhựt Ninh luôn cảm phục và tự hào về tấm gương hy sinh dũng cảm của liệt sĩ Võ Văn Vọng.
Với cường độ bắn phá và càng quét ngày một ác liệt của địch đã gây nhiều thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân xã Nhựt Ninh, nhưng nhiều gia đình vẫn cất chòi bám ở lại vùng địa hình để giúp đỡ cách mạng. Để chống lại chính sách bình định của giặc, chi bộ Nhựt Ninh đã vượt qua khó khăn, tìm mọi cách bám cơ sở, củng cố tinh thần nhân dân, phát động nhiều cuộc đấu tranh chống càn quét bắn phá giết hại dân lành. Các cơ sở tăng cường công tác binh vận cài cắm người vào các lực lượng và tổ chức của địch, hàng ngày tìm cách lân la để tác động tinh thần của bọn lính sư đoàn 25 đang phải sống xa quê, nhớ vợ, nhớ con, vận động các gia đình có người thân ở trong hàng ngũ binh tề của địch; sự có mặt của họ trong các đoàn đấu tranh cũng làm giảm đi sự đàn áp khủng bố của giặc. Hàng tháng có 4 đến 5 cuộc đấu tranh chống càn quét bắn phá, khi có người chết hay bị thương do bom pháo địch nhân dân liền kéo đi đấu tranh. Như trường hợp bà Ba còng, bà chín Vững (Nhựt Long) bị pháo địch bắn chết nhân dân đã khiêng người chết kéo tới trụ sở ngụy quyền tố cáo tội các của giặc và yêu cầu ngưng bắn pháo bừa bải. Tên Chín Trung xã trưởng Nhựt Ninh phải đứng ra tiếp nhận yêu sách của nhân dân và hứa trình lên cấp trên.
Bên cạnh đó, ta tiến hành trừng trị tên gián điệp Lý Sơn, trưởng ấp Nhựt Long Trần Văn Thời (bị diệt cách bót Nhựt Long 800m) gây hoang mang lớn trong bọn tề xã, ấp và binh lính địch ở Nhựt Ninh.
Đến năm 1970, địch gần như thực hiện xong chương trình bình định ở xã Nhựt Ninh và đang triển khai quân sự hóa bộ máy kìm kẹp ở cơ sở bằng cách thành lập phân chi khu, cuộc cảnh sát do các sĩ quan được đào tạo bài bản chỉ huy. Bộ máy kìm kẹp ngày trở nên gắt gao khi bọn tình báo, cùng bọn cán bộ bình định len lõi vào xóm ấp, vào từng hộ gia đình nhất là gia đình cách mạng để tuyên truyền xuyên tạc, vận động chiêu hồi nhằm gây chia rẽ, ly gián trong nội bộ nhân dân. Bọn cán bộ bình định “ăn dằm nằm dề” trong nhà dân, giả vờ thân tình làm con nuôi, con rễ gia đình cách mạng gây lẫn lộn trắng đen. Chúng khuyến khích bọn tay sai lân la kết thân với gia đình cách mạng, tìm cách gày bẩy, khống chế, dụ dỗ người thân của cán bộ chiến sĩ quan hệ tình cảm với chúng nhằm làm “tha hóa” các gia đình cách mạng, tiến tới diệt cơ sở của ta, gây chia rẽ trong nội bộ ta. Bằng những thủ đoạn trên, chúng đã gây thiệt hại nặng cho cơ sở cách mạng.
Tháng 6/1970, lính sư đoàn 25 rút thay vào đó là các đại đội địa phương quân và các trung đội nghĩa quân như đồn Cầu Dây 1 đại đội của tiểu đoàn 303, đồn Giếng Mạch đại đội 207, đồn Nhựt Long đại đội 122, đồng Nhựt Tân đóng 1 trung đội nghĩa quân. Tháng 10/1970, trước sự thay đổi của cục diện chiến trường Miền Nam, Bộ chỉ huy Miền đã có sự điều chỉnh lại tổ chức trên các Mặt trận, trong đó có mặt trận phía Tây, Nam Sài Gòn, tức phân khu 2 và phân khu 3 được sát nhập lại thành phân khu 23. Phân khu ủy phân khu 23 chủ trương khôi phục lực lượng vũ trang trong hoàn cảnh mới để chống phá bình định của địch.
Tháng 10/1970 đồng chí Mai Bá Văn bị địch bắt, đồng chí Nguyễn Văn Xiếu (Bảy Xiếu) thay thế làm Bí thư chi bộ tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng tại xã. Trước sự càn quét và bình định ráo riết của địch, các đồng chí cán bộ xã Nhựt Ninh phải chuyển địa bàn sang trú đóng tại Cần Đước, Châu Thành. Tuy vậy, lực lượng nòng cốt, cơ sở mật của ta vẫn còn rất mạnh, ngày càng bám chặt trong các đội phòng vệ dân sự, trong binh tề xã, ấp nên việc theo dõi nắm bắt tình hình luôn được duy trì.
Năm 1971 địch đưa tên Ngọt làm trưởng ấp Nhựt Long, trong toán nhân dân tự vệ của ấp có một số là cơ sở cách mạng. Nhân cơ hội này, đồng chí Ba Đẩm (có thời gian công tác ở công trường Huyện) đã tổ chức cho anh Tám Hiệp lấy viên đạn súng trung liên (súng của nhân dân tự vệ ấp) về lấp chất nỗ vào, sau đó đưa lại cho anh Tám Hiệp cùng với anh Hai Tạc tìm cách lắp vào súng như cũ. Hôm sau trưởng ấp Ngọt lấy súng bắn, súng bị bể nòng, trưởng ấp Ngọt bị thương, nội bộ địch xào xáo. Địch đã bắt tên phó trưởng ấp và các anh nhân dân tự vệ Tám Hiệp, Hai Tạc, Ba Ngọt, Lực..... vì tình nghi là Việt Cộng. Sau sự kiện này nhân dân tự vệ ở Nhựt Long không còn phải gác tại ấp nữa.
Trên cơ sở phân tích đánh giá cục diện chiến trường Nam bộ, tháng 8/1971, Trung ương cục và quân ủy Miền đã vạch kế hoạch tấn công chiến lược cho năm 1972 nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, thu hẹp vùng kiểm soát của chúng, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường, tạo thế cho ta giành thắng lợi tại Hội nghị Pa-ri. Phối hợp cùng toàn Miền, Bộ chỉ huy phân khu 23 (đến tháng 8/1972 trên giải thể phân khu 23 lập lại tỉnh Long An như trước tháng 11/1967) mở đợt tiến công mới để tạo thế mới, lấy tên là “chồm lên”, lực lượng vũ trang của Miền, phân khu 23 được tăng cường về các địa phương đánh địch để mở vùng, mở mảng.
Bọn địch đánh hơi ta chuẩn bị đánh lớn, chúng ra sức càn quét, dùng phi pháo ngăn chặn các tuyến ven đô và tuyến sông Vàm cỏ Đông ở các vùng tranh chấp, vùng tạm chiếm, địch liên tục mở các cuộc hành quân càn quét kết hợp với bắt dân phát hoang liên tục làm “trống trải” các triền lá vùng địa hình, đứng ở Bình Thuận, Bình Lợi người ta nhìn thấy bên Thuận Mỹ (Châu Thành), thấy cả bên Nhựt Long. Nhắc lại khoảng thời gian này, đồng bào chiến sĩ Nhựt Ninh gọi là “thời kỳ bình địa”. Đối với lực lượng cán bộ xã đến cuối năm 1971 còn lại 3 đồng chí đồng chí bảy Xiếu Bí thư chi bộ đồng chí Tư Thiệu và đồng chí Sáu Đọt do địa bàn xã bị đánh phá rất ác liệt phải lánh sang vàm Ông Trương huyện Châu Thành
Nhằm triển khai thực hiện kế hoạch “chồm lên” của trên, tháng 1/1972 Huyện ủy Tân Trụ tổ chức cuộc họp tại xã Long Sơn (Cần Đước) do đồng chí Trần Nghi (Năm Nghi), Bí thư Huyện ủy chủ trì, cùng Bí thư chi bộ các xã trong Huyện, đồng chí Bảy Xiếu bí thư xã Nhựt Ninh cùng tham dự hội nghị này. Theo đó Huyện ủy chỉ đạo cán bộ huyện, xã phải về bám và trụ lại ở địa bàn để lãnh đạo nhân dân chống phá lại chương trình bình định của địch. Trước mắt đẩy mạnh nhiệm vụ củng tổ chức, móc nối cơ sở xây dựng lại thế trận chiến tranh nhân dân bằng việc kết hợp ba mũi giáp công, tấn công địch giành lại thế chủ động trên địa bàn huyện.
Sau hội nghị đồng chí Trần Thị Sen (Tư Sen) sau đó là đồng chí Trần Thị Kiều (Mười Chưởng) và đồng chí Châu Thị Hạnh (Hai Tưng) được huyện ủy phân công về Nhựt Ninh hỗ trợ phong trào. Sau khi nghiên cứu tình hình, trên cơ sở tương quan lực lượng giữa ta và địch, mặc dù ở Nhựt Ninh địch hơn ta về quân sự, nhưng chúng không được lòng dân mặc dù ta đang gặp khó khăn nhưng có chỗ dựa vững chắc là nhân dân, phải về địa phương dựa vào quần chúng để đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận tạo thế đấu tranh vũ trang. Với quyết tâm cao, được nhân dân chở che, giúp đở cây, ván để làm hầm, tiếp tế cơm nước, thông tin liên lạc và được một tổ vũ trang C25 bộ đội tỉnh hỗ trợ các đồng chí xây dựng được hầm bí mật ban đầu ở đầu rạch Bà Quế Đám lá Tối Trời, sau đó tiếp sang các ấp Nhựt Long, Nhựt Chương. Với việc cán bộ ta về bám trụ tại xã đã củng cố thêm tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Ta vận đông nhân dân dùng phân hóa học rải cho cây lá vùng địa hình mau xanh tốt, vận đông nhân dân xây dựng hàng rào chiến đấu từ Miễu Ông Bần Quỳ đến trường học Nhựt Long, ở bờ cảng khu Đám lá Tối Trời và phát động nhân dân cài cắm chông, lựu đạn, đấp mô dựng bảng tử địa đầy rẫy ở địa hình, thỉnh thoảng tổ chức đào công sự ngụy trang rồi tung tin bộ đội về để uy hiếp tinh thần binh lính địch. Địch đã tổ chức hành quân càn quét vào các khu địa hình nhưng lần nào cũng bị thương vong làm nhảo tinh thần binh lính của địch và chúng rất sợ phải đi càn vào khu địa hình. Nhưng với bản chất ngoan cố và bị thúc ép của bọn chỉ huy ở Tân Trụ, bọn phân chi khu Nhựt Ninh mà đứng đầu là trung úy Đỏ đã bắt dân đi phát hoang, phá mô, nhổ hàng rào chiến đấu, với hành động này đã gây thương vong cho một số dân lành, phẩn nộ trước hành động dã mang của giặc, bà con nhân dân đã tổ chức biểu tình khiêng xác người chết kéo lên đồn Cầu Dây đấu tranh với giặc, như lần chúng bắt dân nhổ hàng rào chiến đấu ở Nhựt Long, lựu đạn nổ làm ông Nguyễn Văn Cẩu chết và 2 người bị thương. Nhân dân Nhựt Ninh khiêng xác người chết lên trụ sở xã đấu tranh với giặc đòi bồi thường, chống bắt dân đi phát hoang, nhổ hàng rào chiến đấu,…Bọn địch đã đàn áp đánh đập một số người tham gia, nhân dân đã không lùi bước, buộc tên chín Trung xã trưởng phải đứng ra nhận trách nhiệm và hứa không để lính bắt dân đi phát hoang nữa. Mặt dù lời hứa ấy không mấy ai tin nhưng qua các cuộc đấu tranh đã làm hạ uy thế ngụy quyền tại địa phương nhất là có tác động rất lớn đến tinh thần binh lính địch.
Tháng 7 năm 1972 qua Bà Tư Vàng ta binh vận được Anh Hùm và Rĩ là phòng vệ dân sự của ấp Bình Thuận, qua 2 anh này ta nắm được nề nếp sinh hoạt củ bọn lính nghĩa quân đồn Giếng Mạch, nhất là của 2 tên trưởng phó ấp Bình Thuận. Sau khi nắm tình hình, ta xây dựng kế hoạch đánh toán phòng vệ dân sự diệt 2 tên trưởng phó ấp. Kế hoạch được thống nhất đúng 11 giờ đêm sau khi nhận được ám hiệu, một tổ bộ đội của C25 sẻ bò vào diệt 2 tên trưởng phó ấp, khống chế toán phòng vệ dân sự. Đúng giờ hẹn do không nhận được ám hiệu nên bộ đội rút, kế hoạch không thực hiện được, sáng sớm cơ sở nòng cốt của ta có sáng kiến lùa trâu dặm dấu không để địch phát hiện. Sau khi kiểm tra tình hình nhất là trình bày của 2 anh Hùm và Rĩ thấy kế hoạch chưa bị lộ, đồng chí Tư Sen quyết định cho đánh tiếp vào đêm sau. Đúng giờ hẹn 2 anh Hùm và Rĩ bò ra dẫn bộ đội vào, ta nổ súng bắn tên phó ấp bị thương, bọn lính nghĩa quân nằm yểm trợ gần đó bắn loạn xạ làm đồng chí Nguyễn Văn Đọt (Sáu Đọt) hy sinh và 1 đồng chí bộ đội bị thương, 2 anh Hùm và Rĩ mang súng theo cách mạng và sáng hôm đó ta tập trung nhân dân đấu tranh tung tin 2 anh Hùm và Rĩ bị cách mạng bắt để giữ thế hợp pháp cho gia đình. Có thêm 2 anh Hùm và Rĩ, xã củng cố đội du kích lên gần 1 tiểu đội. Trước sự ngày một lớn mạnh của phong trào cách mạng, ta gần như làm chủ hoàn toàn các khu địa hình và khu căn cứ Đám lá Tối Trời, chương trình bình định của địch ở Nhựt Ninh đã bị thất bại, địch từ chỗ chủ động “ muốn làm gì thì làm” nay rơi vào thế bị động, đồn Giếng mạch rút chạy, nhiều nơi bọn cán bộ bình định không còn đóng ăn ở dài ngày như trước mà thực hiện theo kiểu “ Sáng đến chiều rút” sau đó “ Sáng đến trưa rút”,… có nơi bỏ luôn không dám đến nữa. Từ lúc buộc phải “nhường” khu địa hình cho ta, địch đã tăng cường bắn phá không kể giờ giấc nhằm hủy diệt cơ sở của ta, nhất là uy hiếp tinh thần quần chúng nhân dân, nhưng với tinh thần yêu nước bất khuất, nhân dân Nhựt Ninh vẫn gan góc bám ở lại trong các khu địa hình để giúp đở cách mạng, họ đã chấp nhận hy sinh quyết không để cho cán bộ, chiến sĩ thiếu thuốt men, lương thực hoặc mất liên lạc.
Trước khí thế tiến công vũ bảo của cách mạng miền Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng tại Nhựt Ninh, trên đà thắng lợi, thực hiện chỉ đạo của huyện ủy Tân Trụ, Đảng bộ và nhân dân nhựt Ninh triển khai kế hoạch “ vươn ra đồng” để vừa không ngừng tiến công địch vừa tạo thế và cho toàn vùng giải phóng. Ngày 7/11/1972 được sự hổ trợ của bội đội huyện, du kích xã đã đánh vào trụ sở xã Nhựt Ninh diệt một phòng vệ dân sự và làm bị thương một số tên khác. Tuy trận tiến công mang lại kết quả không lớn nhưng là một minh chứng về sự lớn mạnh của phong trào cách mạng tại xã Nhựt Ninh, từ chỗ khó khăn đã trụ vững tại địa bàn và chủ động tiến công địch.
Trong những ngày cuối năm 1972 sinh hoạt ở khu căn cứ đám lá Tối Trời nhộn nhịp lên hẳn, quân y của R, đội phẩu II về đóng tại rạch Bà Thôn, đội tuyên truyền về đóng tại rạch Ông Len, công trường huyện về đóng tại rạch Lớn, bộ phận an ninh của tỉnh về đóng ở rạch Đập, ngoài ra lực lượng đặc công của Tỉnh cũng đã về đóng trong Đám Lá Tối Trời và từ đây lực lượng vũ trang của ta đã tiến đánh các đồn bót xung quang góp phần tạo áp lực với địch giành thắng lợi trong Hiệp định Pari năm 1973. Về phía địch cuối năm 1972 khi Hiệp định Pari được ký kết, ở Nhựt Ninh địch đã có ý đồ lấn chiếm để giành ưu thế khi Hiệp định chính thức có hiệu lực. Ở các ấp Nhựt Long, Nhựt Tân địch đã cho lính địa phương quân 303, 207 đóng lang ngoài dân bắt dân treo đèn trước cửa nhà vào ban đêm, ban ngày tổ chức các cuộc hành quân phát hoang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, ta đã tăng cường đấu tranh chính trị kết hợp với binh vận và đấu tranh vũ trang. Với đấu tranh chính trị ta làm thất bại việc bắt dân đi phát hoang, phá mô. Với binh vận ta đã vận động các anh em binh lính và gia đình hưởng ứng các cuộc đấu tranh của nhân dân làm giảm hiệu lực các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng. Về đấu tranh vũ trang ta không ngừng củng cố đội du kích xã dựa vào địa hình tổ chức nhân dân cài cấm chông mìn, lưu đạn đã tạo được hiệu quả lớn trong việc chận đánh địch tạo thế cho phong trào đấu tranh chính trị.
Bước vào năm 1973 lợi thế so sánh càng nghiêng rỏ về phía cách mạng và nhân dân. Mặc dù về quân số địch ở Nhựt Ninh đông và mạnh hơn ta rất nhiều lần ( hai trung đội nghĩa quân một đóng ở Nhựt Tân, một đóng ở Đái Nhựt, hai đại đội địa phương quân toán cán bộ bình định, cuộc cảnh sát, phân chi khu, mỗi ấp có 1 toán phòng vệ dân sự do trưởng phó ấp chỉ huy) nhưng địa bàn chiếm đóng ngày càng bị thu hẹp, kế hoạch “ vươn lên đồng” của ta đạt được thắng lợi đẩy địch vào thế bị động lúng túng.
Sau những thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam Việt Nam, Campuchia, Lào và thất bại thảm hại trong cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng B52 vào Hà Nội và một số tỉnh khác ở miền Bắc Việt Nam, ngày 27/01/1973 đế quốc Mỹ buộc phải ký hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ngay từ trước khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, Mỹ đã gấp rút triển khai kế hoạch hậu chiến, đẩy mạnh hoạt động tình báo núp bóng dân sự để phá ta lâu dài. Đồng thời đưa vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh. Về phía chính quyền Sài Gòn, chúng đã tỏ rõ thái độ không tán thành Hiệp định và bộc lộ rõ âm mưu phá hoại. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố trong thông điệp đầu năm 1973 là: không có hòa bình với cộng sản, quyết không nhường một tấc đất cho cộng sản.
Về phía ta, hiểu rõ bản chất của kẻ thù qua thực tiễn đấu tranh, một mặt quán triệt lệnh ngừng bắn theo tinh thần Hiệp định Pa-ri. Nhưng mặt khác nhanh chóng triển khai «kế hoạch thời cơ» nhằm mở rộng vùng giải phóng. Theo chỉ đạo của Huyện ủy Tân Trụ, chi bộ Nhựt Ninh đã lãnh đạo nhân dân và gấp rút triển khai kế hoạch chống âm mưu lấn đất giành dân của địch, chi bộ chỉ đạo lực lượng nòng cốt ở các ấp tổ chức các điểm may cờ và vận động nhân dân đi cắm cờ Mặt trận giải phóng ở khắp mọi nơi, lực lượng binh vận, ban đấu tranh, du kích xã lên phương án đấu tranh và đánh địch ngay khi chúng xua quân lấn chiếm vào vùng do ta kiểm soát. Đêm 27/1/1973 các ấp trong xã Nhựt Ninh đồng loạt treo cờ Mặt trận giải phóng chào mừng Hiệp định Pa-ri vừa được ký kết.
Sáng ngày 28/1/1973 tại xã Nhựt Ninh một rừng cờ xanh đỏ có sao vàng 5 cánh tung bay khắp nơi, kể cả hàng rào đồn bót địch. Được lệnh trên địch huy động lính hiện có kể cả phòng vệ dân sự nhổ cờ Mặt trận và thay vào đó là cờ 3 sọc, chúng tung bọn cán bộ bình định vẽ cờ 3 sọc lên mái tol, lên cửa nhà của nhân dân. Nhưng chúng chỉ thực hiện được ở các khu vực mà chúng kiểm soát, còn lại chúng bị lực lượng chính trị của ta đánh phủ đầu: “Hồi hôm mấy ổng về đông lắm, cắm cờ gài lựu đạn khắp nơi, mấy chú đừng vào đó mà chết oan mạng”. Đòn tâm lý này xem ra có hiệu quả bọn lính tiến thoái lưỡng nan, địch đã bắt dân phá mô, lựu đạn nổ làm chết 1 em học sinh đang học ở Sài Gòn về thăm nhà ở Nhựt Chương, bà con phẩn nộ khiêng xác em học sinh lên ủy ban xã đòi tên xã trưởng chín Trung phải bồi thường. Cùng với bộ binh địch đã cho pháo binh bắn tới tấp vào khu địa hình. Hiệp định Pari vừa có hiệu lực hòa bình đâu không thấy kẻ thù lại tiếp tục gây tội ác. Trong thế giằn co ban ngày địch vẽ cờ 3 sọc, tối ta vận động nhân dân phát loa, bôi cờ, công việc này kéo dài hàng tháng trời, địch dựa vào sức mạnh quân sự, còn ta dựa vào lực lượng quần chúng nhân dân, nhiều lần địch tổ chức hành quân mở rộng vùng chiếm đóng bị du kích ta dựa vào địa hình đánh trả gây cho địch nhiều tổn thất, kế hoạch chiếm đất giành dân của địch ở Nhựt Ninh đã bị thất bại.
Tháng 7/1973, lính 303 kết hợp với lính Cầu Dây và bảo an Tân Trụ với quân số gần một tiểu đoàn mở rộng càn quét từ Cầu Dây vào Nhựt Long. Lực lượng vũ trang của ta có khỏang non 1 đại đội gồm bộ đội chủ lực và du kích địa phương, bộ chỉ huy gồm các đồng chí Sáu Thiết (Bí thư huyện ủy), Tám Hòa (chỉ huy bộ đội chủ lực), Bảy Chiến (cán bộ tác chiến của tỉnh), đồng chí Ba Hai (tỉnh ủy viên) thống nhất chia bộ đội thành 2 cánh: 1 cánh phục kích ở Cầu Làng, 1 cánh đón địch tại trường học Nhựt Long. Bọn địch hành quân từ sáng đến trưa không gặp phải sự đối kháng nào nên tinh thần đã uể oải, chờ cho bọn lính hành quân qua gần hết, ta nổ súng. Bị đánh bất ngờ quân lính địch bỏ chạy ra Miễu Ông Bần Quỳ, chạy đến đập đế (gần trường học Nhựt Long) bị bộ đội ta phục sẳn nổ súng diệt thêm một số. Đây là trận đánh gây tiếng vang trong toàn tỉnh, địch bị tiêu hao khoảng 1 đại đội ta thu trên 100 súng các loại. Điều nổi bật trong trận đánh này là có sự đóng góp rất lớn của quần chúng nhân dân, qua việc nắm tình hình của địch do nhân dân báo, ta bố trí trận địa phục kích, diễn tiến trận đánh nhanh gọn đúng theo kế hoạch mà ban chỉ huy đã đề ra.
Ngày 10/11/1973 đồng chí Nguyễn Văn Xiếu (Bảy Xiếu) bị địch phục kích bắn hy sinh tại ấp Bình Thuận, Huyện ủy phân công đồng chí Lê Văn kiềm làm Bí thư chi bộ
Từ cuối năm 1973 sang năm 1974, cùng với tổ chức các cuộc hành quân càn quét địch ra lệnh giới nghiêm, cấm người dân trong xã không được đi ra đường vào ban đêm nhằm mục đích cắt đứt liên lạc, tiếp tế của nhân dân với cách mạng. Lệnh giới nghiêm bị nhân dân phản đối kịch liệt. Ta tổ chức nhân dân đấu tranh được đi lại để lấy nước, tháo nước ruộng, dân nghèo còn phải cắm câu; soi cá để sống, rồi còn đau yếu; sanh đẻ phải được chạy lo kịp thời, cuối cùng từ giữa năm 1974 trở đi buộc địch phải bải bỏ lệnh giới nghiêm, nhờ vậy nhân dân có điều kiện đi lại giúp đỡ cách mạng.
Đầu năm 1975 đồn Đái Nhựt rút chạy, lúc này ở Nhựt Ninh còn chịu ảnh hưởng trực tiếp ở 2 đồn nhưng đều đóng trên địa bàn xã Đức Tân, đó là đồn Cầu Dây và đồn Cầu Dừa. sau trận phục kích đám lính 303 tinh thần binh lính địch rất dao động, đi càn vào Nhựt Ninh luôn là nổi ám ảnh, nếu không chết cũng bị thương vì đạn của bộ đội và du kích hoặc bị chông mìn lựu đạn cài cắm khắp nơi.
Tháng 02 năm 1975 một đại đội của sư đoàn 22 ngụy đến đóng tại ấp Nhựt Tân đã bị du kích đón đánh liên tục buộc chúng phải rút đi.
Trên đà thắng lợi của quân và dân miền Nam trên các chiến trường, ngày 25/3/1975 Bộ Chính trị họp đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975. Do tình hình chiến trường phát triển nhanh, phát hiện thời cơ chiến lược mới, ngày 01/4/1975 Bộ Chính trị quyết định thực hiện tổng tiến công, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất trong tháng 4/1975. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định.
Kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định là chiến dịch hợp đồng quân chủng qui mô lớn có kết hợp tiến công và nổi dậy, với 5 hướng tiến công như xuân Mậu Thân năm 1968. Nhiệm vụ của quân và dân Long An trong chiến dịch là phục vụ cho 2 sư đoàn của miền đánh vào Sài Gòn từ hướng Tây (trong đó sư đoàn 5 tham gia giải phóng huyện lỵ Thủ Thừa; chia cắt lộ 4 đoạn Cầu Voi đến tỉnh lỵ Long An) và sử dụng 2 tiểu đoàn của tỉnh cùng 2 trung đoàn của khu 8 từ hướng Nam qua các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước đánh vào Sài Gòn và thực hiện khẩu hiệu «xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh ». Huyện Tân Trụ có nhiệm vụ quan trọng là bảo đảm đường tiến quân và địa bàn tiến công cho các đơn vị của quân khu và của tỉnh, đồng thời phối hợp với các đơn vị này tiến đánh các đồn bót, giải phóng huyện lỵ, tự giải phóng các xã trên địa bàn huyện.
Nhiệm vụ của các xã thuộc huyện Tân Trụ được xác định là phục vụ chiến đấu cho các đơn vị chủ lực khi đi qua địa bàn, tự giải phóng các nơi còn lại theo phương châm của tỉnh.
Ngày 13/4/1975 các đơn vị vũ trang của tỉnh gồm tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 45, 2 đại đội đặc công, sau đó lần lượt các trung đoàn 24 và trung đoàn 88 của quân khu hành quân sang Tân Trụ, các đơn vị của trên đã phối hợp với bộ đội huyện, du kích các xã đánh và bứt rút các đồn bót, dọn sạch tuyến hành lang vận chuyển của ta từ Tân Trụ hướng sang Cần Đước.
Đối với xã Nhựt Ninh, ngoài nhiệm vụ chung, xã Nhựt Ninh còn có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị của huyện huy động trên 50 ghe lớn, 500 xuồng be cơi, từ các phương tiện kể trên nhân dân xã Nhựt Ninh đã tham gia đưa rước trên 10.000 lượt bộ đội và khí tài qua sông; về gạo, ngoài huy động trong nhân dân, huyện còn tổ chức mua thêm theo yêu cầu cấp trên; về nước uống, đối với vùng hạ Tân Trụ nước ngọt cho mùa khô là rất hiếm, qua vận động nhân dân mua thêm lu mái rồi tổ chức gánh từ các ao làng, nhà nào cũng chứa vài chục lu nước đầy ắp. Lúc bộ đội về đóng quân được bố trí ở các ấp Bình Hòa, Nhựt Long, Nhựt Chương,... không khí nhộn nhịp khác thường nhưng địa bàn đóng quân được bảo vệ an toàn tuyệt đối. Đây là lần thứ 2 xã Nhựt Ninh có vinh dự góp phần vào 2 chiến dịch lớn của Đảng ta.
Ngày 20/4/1975, tiểu đoàn 45 của tỉnh phối hợp với bộ đội huyện, du kích Nhựt Ninh, Đức Tân tấn công trụ sở xã Nhựt Ninh, đồn Cầu Dây và đồn Cầu Dừa, diệt trên 20 tên, san bằng 2 đồn, ngụy quyền tay sai bỏ chạy, xã Nhựt Ninh được giải phóng.
Nhân dân xã Nhựt Ninh đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình: Tỉnh giải phóng tỉnh; huyện giải phóng huyện; xã giải phóng xã góp phần cùng với quân dân cả Miền Nam cả nước lập nên kỳ tích mùa xuân đại thắng; Miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.
KẾT LUẬN
Theo dòng thời gian, những người dân lưu tán kể từ khi đặt chân khai phá và lập nên mảnh đất Nhựt Ninh đến nay có gần 3 thế kỷ.
Trong vòng gần 300 năm đó, người dân Nhựt Ninh đã không ngừng đấu tranh để đứng vững trên mảnh đất mà bao đời ông cha và các lớp thế hệ cháu con đã dày công giữ gìn vun đấp.
Người dân ở đây có quyền tự hào về những đóng góp của họ trong công cuộc dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ, và có lẽ rực rỡ hơn cả là trong suốt 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhân dân Nhựt Ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy truyền thống bất khuất kiên cường, đã lập nên những chiến công xuất sắc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Để có cái nhìn tổng quan nhất về những đóng góp của đất và người Nhựt Ninh trong 2 cuộc kháng chiến cứu nước. Sau đây là tóm kết những thành tích của nhân dân Nhựt Ninh thay cho phần kết của tập sách này.
Khi đánh giá về những thành tích của quân và dân xã Nhựt Ninh, các đồng chí cán bộ lão thành, trong đó có các đồng chí nguyên là lãnh đạo tỉnh, huyện trong thời kháng chiến, qua các cuộc tọa đàm, hội thảo truyền thống lịch sử đều thống nhất những nhận xét, đánh giá chủ yếu sau:
a) Suốt cả 30 năm hai cuộc kháng chiến, trong đó thời kỳ đáng kể hơn hết là 21 năm chống Mỹ cứu nước (1954-1975) quân và dân Nhựt Ninh đã bảo đảm hoàn thành xuất sắc vai trò 1 xã mắc xích trong hành lang chiến tranh nhân dân địa phương, từ Tiền Giang qua Châu Thành qua Nhựt Ninh (Tân Trụ) sang Cần Đước phát triển luôn vào 1 số quận của Sài Gòn. Thứ hai Nhựt Ninh đã đảm bảo hoàn thành xuất sắc vai trò địa bàn bộ đội đứng chân để đánh giặc tại chỗ và triển khai đi đánh giặc nơi khác. Đánh xong lại quay về Nhựt Ninh nghỉ quân, Nhựt Ninh đã làm tốt nhiệm vụ này mà chưa để xảy ra tổn thất đáng tiếc nào. Thứ ba, Nhựt Ninh có vai trò trung chuyển của các lõm căn cứ các huyện bạn và của trên, vũ khí đạn dượt thương binh của ta từ nhiều đường về đây tạm cất giữ và điều trị sau đó được chuyển đi nơi khác, cũng chưa có tổn thất nghiêm trọng nào trong quá trình phục vụ tải thương, phục vụ tải vũ khí. Thứ tư là ở Nhựt Ninh có Đám lá tối trời “khu căn cứ cách mạng trong vùng” khái niệm này có lẽ sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dù được chấp nhận cở nào, Đám lá tối trời - Nhựt Ninh đã chứng minh được điều đó. Đã có nhiều đơn vị, cơ quan của trên về đây hoạt động, hội thảo, huấn luyện học tập được nhân dân ở đây giúp đở; bảo vệ rất tốt.
b) Du kích Nhựt Ninh qua 2 cuộc kháng chiến luôn là chỗ dựa vững chắc của Đảng bộ và nhân dân, với lối đánh dũng cảm, thông minh những vũ khí thô sơ tự tạo như hầm chông, đạp lôi, súng ngựa trời....kể cả Ong vò vẻ đều gây khiếp đảm quân thù. Kết quả phong trào du kích chiến tranh của Nhựt Ninh đã bổ sung làm phong phú thêm hình thái chiến tranh nhân dân địa phương.
c) Mũi đấu tranh chính trị, binh tề vận và cài cắm người yêu nước vào hàng ngũ địch đã diễn ra rất độc đáo, thành tích đó biểu thị sự nhất quán thực hiện lãnh chỉ đạo của Đảng về thực hiện “ hai chân, ba mũi”, “ ba mũi giáp công” trong quá trình thực hiện đã có những sáng tạo rất linh hoạt, nhờ thành quả này, cách mạng đã chi phối hạn chế rất lớn và khá lâu dài nhiều lĩnh vực của địch.
d) Tấm lòng của nhân dân Nhựt Ninh đối với cách mạng thật bao la không bến bờ. Trong các giai đoạn thoái trào được sự đùm bọc, chở che, giúp đỡ của nhân dân, phong trào cách mạng trong xã gượng dậy và lớn mạnh rất nhanh. Khi đế quốc Mỹ đổ quân vào Miền Nam, kèm theo các cuộc hành quân càn quét là phi pháo địch bắn phá tự do bất kể ngày đêm, bất kể địa hình hay địa bàn dân cư, giữa lằn đạn pháo người dân Nhựt Ninh vẫn bám ruộng đồng sản xuất lấy lương thực nuôi quân. Chiến tranh đổ nát do giặc thù gây ra làm cho nhân dân lâm vào cảnh thiếu đói, nhưng họ vẫn chắt chiêu từng hạt gạo cũ khoai để tiếp tế cho cán bộ chiến sĩ. Khi địch tăng cường chính sách bình định, cán bộ chiến sĩ ta bị địch bủa vây chính người dân đã bất chấp hiểm nguy, nhất quyết không để cán bộ chiến sĩ bị thiếu đói hay mất thông tin liên lạc.
e) Trong 2 cuộc kháng chiến cứu nước, xã Nhựt Ninh đã cung cấp; bổ sung cho lực lượng của trên hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ. Dù ở cương vị nào, cán bộ chiến sĩ người Nhựt Ninh luôn phát huy truyền thống quê hương chiến đấu lập công xuất sắc.
Những thành tích trên không chỉ là niềm tự hào mà còn là hành trang quí báu luôn cổ vũ động viên Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Nhựt Ninh luôn tự tin vững bước trên chặng đường cách mạng tiếp theo.